Traducción de los significados del Sagrado Corán - Traducción al vietnamita - Centro de traducción Rwwad * - Índice de traducciones

XML CSV Excel API
Please review the Terms and Policies

Traducción de significados Capítulo: Sura Az-Zukhruf   Versículo:

Chương Al-Zukhruf

حمٓ
Ha. Mim.[1]
[1] Xem lại phần chú thích ở câu 1 của chương Al-Baqarah.
Las Exégesis Árabes:
وَٱلۡكِتَٰبِ ٱلۡمُبِينِ
Thề bởi Kinh (Qur’an) quang minh.
Las Exégesis Árabes:
إِنَّا جَعَلۡنَٰهُ قُرۡءَٰنًا عَرَبِيّٗا لَّعَلَّكُمۡ تَعۡقِلُونَ
Quả thật, TA đã làm cho Nó thành một quyển Kinh để xướng đọc bằng tiếng Ả-rập, mong rằng các ngươi có thể hiểu.
Las Exégesis Árabes:
وَإِنَّهُۥ فِيٓ أُمِّ ٱلۡكِتَٰبِ لَدَيۡنَا لَعَلِيٌّ حَكِيمٌ
Quả thật, (Qur’an này) nguyên nằm trong Tập Kinh Mẹ (Lawhu Al-Mahfuzh) ở nơi TA, rất cao thâm, uyên bác.
Las Exégesis Árabes:
أَفَنَضۡرِبُ عَنكُمُ ٱلذِّكۡرَ صَفۡحًا أَن كُنتُمۡ قَوۡمٗا مُّسۡرِفِينَ
Lẽ nào TA phải lấy lại Lời Nhắc Nhở (Qur’an) khỏi các ngươi bởi vì các ngươi là đám người tội lỗi quá độ?! (TA không làm thế vì lòng nhân từ của TA dành cho các ngươi đòi hỏi điều ngược lại).
Las Exégesis Árabes:
وَكَمۡ أَرۡسَلۡنَا مِن نَّبِيّٖ فِي ٱلۡأَوَّلِينَ
TA đã cử phái biết bao Nabi cho những cộng đồng thời trước!
Las Exégesis Árabes:
وَمَا يَأۡتِيهِم مِّن نَّبِيٍّ إِلَّا كَانُواْ بِهِۦ يَسۡتَهۡزِءُونَ
Tuy nhiên, không một Nabi nào đến với họ mà lại không bị họ nhạo báng, giễu cợt.
Las Exégesis Árabes:
فَأَهۡلَكۡنَآ أَشَدَّ مِنۡهُم بَطۡشٗا وَمَضَىٰ مَثَلُ ٱلۡأَوَّلِينَ
Vì vậy, TA đã tiêu diệt những kẻ mạnh nhất trong bọn họ; và hình ảnh của người xưa đã đi vào dĩ vãng.
Las Exégesis Árabes:
وَلَئِن سَأَلۡتَهُم مَّنۡ خَلَقَ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضَ لَيَقُولُنَّ خَلَقَهُنَّ ٱلۡعَزِيزُ ٱلۡعَلِيمُ
Nếu Ngươi (Thiên Sứ) hỏi (những kẻ thờ đa thần) “Ai đã tạo ra các tầng trời và trái đất?” thì chắc chắn chúng sẽ nói: “Đấng Toàn Năng, Đấng Toàn Tri đã tạo ra.”
Las Exégesis Árabes:
ٱلَّذِي جَعَلَ لَكُمُ ٱلۡأَرۡضَ مَهۡدٗا وَجَعَلَ لَكُمۡ فِيهَا سُبُلٗا لَّعَلَّكُمۡ تَهۡتَدُونَ
(Allah là) Đấng đã làm trái đất như một chiếc giường ngủ cho các ngươi và đã làm ra trên nó những con đường cho các ngươi để đưa các ngươi đi đến (điểm cần đến).
Las Exégesis Árabes:
وَٱلَّذِي نَزَّلَ مِنَ ٱلسَّمَآءِ مَآءَۢ بِقَدَرٖ فَأَنشَرۡنَا بِهِۦ بَلۡدَةٗ مَّيۡتٗاۚ كَذَٰلِكَ تُخۡرَجُونَ
(Ngài là) Đấng đã ban nước mưa từ trên trời xuống theo định lượng. TA (Allah) dùng (nước mưa) làm sống lại mảnh đất đã chết (khô cằn, nứt nẻ). (Rồi đây) các ngươi sẽ được dựng sống lại giống như thế.
Las Exégesis Árabes:
وَٱلَّذِي خَلَقَ ٱلۡأَزۡوَٰجَ كُلَّهَا وَجَعَلَ لَكُم مِّنَ ٱلۡفُلۡكِ وَٱلۡأَنۡعَٰمِ مَا تَرۡكَبُونَ
(Ngài là) Đấng đã tạo tất cả mọi vật thành từng cặp (đực cái, trống mái, âm dương) và (Ngài là Đấng) đã tạo cho các ngươi những con tàu và các loại gia súc để các ngươi cưỡi (và chuyên chở đồ đạc).
Las Exégesis Árabes:
لِتَسۡتَوُۥاْ عَلَىٰ ظُهُورِهِۦ ثُمَّ تَذۡكُرُواْ نِعۡمَةَ رَبِّكُمۡ إِذَا ٱسۡتَوَيۡتُمۡ عَلَيۡهِ وَتَقُولُواْ سُبۡحَٰنَ ٱلَّذِي سَخَّرَ لَنَا هَٰذَا وَمَا كُنَّا لَهُۥ مُقۡرِنِينَ
(Những con tàu, các loại gia súc, Ngài tạo chúng cho các ngươi) để các ngươi có thể ngồi vững trên lưng của chúng và sau đó các ngươi nhớ đến hồng phúc của Thượng Đế của các ngươi và nói: “Quang vinh thay Đấng đã chế ngự (phương tiện) này cho bầy tôi, bởi quả thật bầy tôi không đủ khả năng chế ngự nó.”
Las Exégesis Árabes:
وَإِنَّآ إِلَىٰ رَبِّنَا لَمُنقَلِبُونَ
“Và bầy tôi chắc chắn sẽ trở về trình diện Thượng Đế của bầy tôi!”
Las Exégesis Árabes:
وَجَعَلُواْ لَهُۥ مِنۡ عِبَادِهِۦ جُزۡءًاۚ إِنَّ ٱلۡإِنسَٰنَ لَكَفُورٞ مُّبِينٌ
(Những kẻ đa thần) đã gán một số trong đám bề tôi của Ngài có phần chia sẻ (với Ngài khi họ nói: các Thiên Thần là những đứa con gái của Ngài). Quả thật, con người rõ ràng là kẻ vô ơn.
Las Exégesis Árabes:
أَمِ ٱتَّخَذَ مِمَّا يَخۡلُقُ بَنَاتٖ وَأَصۡفَىٰكُم بِٱلۡبَنِينَ
(Này những kẻ đa thần!) Lẽ nào (Allah) chọn lấy những vật mà Ngài đã tạo ra làm những đứa con gái (của Ngài) và ưu ái đặc biệt cho các ngươi những đứa con trai?!
Las Exégesis Árabes:
وَإِذَا بُشِّرَ أَحَدُهُم بِمَا ضَرَبَ لِلرَّحۡمَٰنِ مَثَلٗا ظَلَّ وَجۡهُهُۥ مُسۡوَدّٗا وَهُوَ كَظِيمٌ
Khi ai đó trong bọn chúng nhận được tin mừng (về sự ra đời một đứa con gái) mà chúng đã thường gán cho Đấng Ar-Rahman thì gương mặt của y tối sầm lại, (lòng của y) ngập tràn sự đau thương.
Las Exégesis Árabes:
أَوَمَن يُنَشَّؤُاْ فِي ٱلۡحِلۡيَةِ وَهُوَ فِي ٱلۡخِصَامِ غَيۡرُ مُبِينٖ
Lẽ nào một người (phụ nữ)[2] được nuôi dưỡng trong các món trang sức và ăn nói không rành mạch (lại là kẻ phò tá cho Allah)?!
[2] Những người Ả-rập đa thần thời tiền Islam đã tôn thờ các nữ thần như nữ thần Al-Lat, Al-‘Uzza, và Al-Manat. Họ cho rằng các Thiên Thần là những đứa con gái của Allah.
Las Exégesis Árabes:
وَجَعَلُواْ ٱلۡمَلَٰٓئِكَةَ ٱلَّذِينَ هُمۡ عِبَٰدُ ٱلرَّحۡمَٰنِ إِنَٰثًاۚ أَشَهِدُواْ خَلۡقَهُمۡۚ سَتُكۡتَبُ شَهَٰدَتُهُمۡ وَيُسۡـَٔلُونَ
Chúng đã qui cho các Thiên Thần - những bề tôi của Đấng Ar-Rahman - là nữ giới. Lẽ nào chúng đã (tận mắt) chứng kiến việc (Ngài) đã tạo hóa các Thiên Thần?! Sự xác nhận của chúng sẽ được ghi lại và chúng sẽ bị tra hỏi.
Las Exégesis Árabes:
وَقَالُواْ لَوۡ شَآءَ ٱلرَّحۡمَٰنُ مَا عَبَدۡنَٰهُمۗ مَّا لَهُم بِذَٰلِكَ مِنۡ عِلۡمٍۖ إِنۡ هُمۡ إِلَّا يَخۡرُصُونَ
Chúng nói: “Nếu Đấng Ar-Rahman đã muốn thì bọn ta đã không tôn thờ họ rồi!” Chúng chẳng có một chút kiến thức nào về điều đó cả. Chúng chỉ đoán chừng mà thôi.
Las Exégesis Árabes:
أَمۡ ءَاتَيۡنَٰهُمۡ كِتَٰبٗا مِّن قَبۡلِهِۦ فَهُم بِهِۦ مُسۡتَمۡسِكُونَ
Hoặc lẽ nào TA đã ban cho chúng một Kinh Sách trước (Qur’an này cho phép chúng thờ phượng ngoài TA) nên chúng cứ bám chắc theo đó?!
Las Exégesis Árabes:
بَلۡ قَالُوٓاْ إِنَّا وَجَدۡنَآ ءَابَآءَنَا عَلَىٰٓ أُمَّةٖ وَإِنَّا عَلَىٰٓ ءَاثَٰرِهِم مُّهۡتَدُونَ
Không! Chúng thường bảo: “Bọn ta thấy cha ông của bọn ta theo một tôn giáo nào đó nên bọn ta đi theo dấu chân của họ.”
Las Exégesis Árabes:
وَكَذَٰلِكَ مَآ أَرۡسَلۡنَا مِن قَبۡلِكَ فِي قَرۡيَةٖ مِّن نَّذِيرٍ إِلَّا قَالَ مُتۡرَفُوهَآ إِنَّا وَجَدۡنَآ ءَابَآءَنَا عَلَىٰٓ أُمَّةٖ وَإِنَّا عَلَىٰٓ ءَاثَٰرِهِم مُّقۡتَدُونَ
Tương tự như thế, không một vị cảnh báo nào trước Ngươi được TA cử phái đến cho một thị trấn mà những kẻ giàu có của thị trấn đó lại không nói: “Bọn ta thấy cha ông của bọn ta theo một tôn giáo nào đó nên bọn ta đi theo dấu chân của họ.”
Las Exégesis Árabes:
۞ قَٰلَ أَوَلَوۡ جِئۡتُكُم بِأَهۡدَىٰ مِمَّا وَجَدتُّمۡ عَلَيۡهِ ءَابَآءَكُمۡۖ قَالُوٓاْ إِنَّا بِمَآ أُرۡسِلۡتُم بِهِۦ كَٰفِرُونَ
(Vị cảnh báo của chúng) đã nói (với chúng): “Lẽ nào ngay cả việc Ta mang đến cho các ngươi một nguồn hướng dẫn tốt hơn cái mà các ngươi thấy cha mẹ của các ngươi đang theo ư?” Chúng đáp: “Bọn ta không tin nơi điều mà các ngươi mang đến!”
Las Exégesis Árabes:
فَٱنتَقَمۡنَا مِنۡهُمۡۖ فَٱنظُرۡ كَيۡفَ كَانَ عَٰقِبَةُ ٱلۡمُكَذِّبِينَ
Vì vậy, TA đã trừng phạt chúng. Ngươi hãy xem kết cuộc của những kẻ phủ nhận (các vị cảnh báo) đã xảy ra như thế nào!
Las Exégesis Árabes:
وَإِذۡ قَالَ إِبۡرَٰهِيمُ لِأَبِيهِ وَقَوۡمِهِۦٓ إِنَّنِي بَرَآءٞ مِّمَّا تَعۡبُدُونَ
(Ngươi hãy nhớ lại - hỡi Thiên Sứ) khi Ibrahim nói với cha và người dân của mình: “Tôi không can hệ với những thần linh mà các người đang tôn thờ.”
Las Exégesis Árabes:
إِلَّا ٱلَّذِي فَطَرَنِي فَإِنَّهُۥ سَيَهۡدِينِ
“Tôi chỉ tôn thờ Đấng đã tạo ra tôi, bởi quả thật, Ngài sẽ hướng dẫn tôi.”
Las Exégesis Árabes:
وَجَعَلَهَا كَلِمَةَۢ بَاقِيَةٗ فِي عَقِبِهِۦ لَعَلَّهُمۡ يَرۡجِعُونَ
(Ibrahim) đã làm cho nó (lời Tawhid: chỉ có Allah là Thượng Đế) thành một lời trường cửu cho hậu thế, mong rằng họ biết quay trở lại (với Ngài).
Las Exégesis Árabes:
بَلۡ مَتَّعۡتُ هَٰٓؤُلَآءِ وَءَابَآءَهُمۡ حَتَّىٰ جَآءَهُمُ ٱلۡحَقُّ وَرَسُولٞ مُّبِينٞ
Không! (Ngay cả khi những kẻ đa thần bắt đầu tôn thờ những thần linh khác ngoài TA, TA đã không tiêu diệt chúng) TA đã để cho chúng và cha ông của chúng tận hưởng (cuộc sống trần gian) cho đến khi Chân Lý (Qur’an) và một Sứ Giả minh bạch đến với chúng.
Las Exégesis Árabes:
وَلَمَّا جَآءَهُمُ ٱلۡحَقُّ قَالُواْ هَٰذَا سِحۡرٞ وَإِنَّا بِهِۦ كَٰفِرُونَ
Tuy nhiên, khi Chân Lý đến với chúng thì chúng lại nói: “Đây là trò ma thuật, bọn ta không tin nơi Nó.”
Las Exégesis Árabes:
وَقَالُواْ لَوۡلَا نُزِّلَ هَٰذَا ٱلۡقُرۡءَانُ عَلَىٰ رَجُلٖ مِّنَ ٱلۡقَرۡيَتَيۡنِ عَظِيمٍ
Và chúng nói: “Sao Qur’an này không được ban xuống cho những người (giàu có, chức quyền và tiếng tăm) của hai thị trấn lớn (như Makkah và Ta-if) kia chứ?!”
Las Exégesis Árabes:
أَهُمۡ يَقۡسِمُونَ رَحۡمَتَ رَبِّكَۚ نَحۡنُ قَسَمۡنَا بَيۡنَهُم مَّعِيشَتَهُمۡ فِي ٱلۡحَيَوٰةِ ٱلدُّنۡيَاۚ وَرَفَعۡنَا بَعۡضَهُمۡ فَوۡقَ بَعۡضٖ دَرَجَٰتٖ لِّيَتَّخِذَ بَعۡضُهُم بَعۡضٗا سُخۡرِيّٗاۗ وَرَحۡمَتُ رَبِّكَ خَيۡرٞ مِّمَّا يَجۡمَعُونَ
Lẽ nào chúng toàn quyền phân chia hồng ân của Thượng Đế của Ngươi?! Chính TA (Allah) mới toàn quyền phân bổ sinh kế của chúng giữa chúng với nhau trong đời sống trần tục này. TA đã nâng một số người này trội hơn một số người khác về cấp bậc để cho người này bắt người kia phục dịch. Và hồng ân của Thượng Đế của Ngươi tốt hơn của cải mà chúng tích lũy.
Las Exégesis Árabes:
وَلَوۡلَآ أَن يَكُونَ ٱلنَّاسُ أُمَّةٗ وَٰحِدَةٗ لَّجَعَلۡنَا لِمَن يَكۡفُرُ بِٱلرَّحۡمَٰنِ لِبُيُوتِهِمۡ سُقُفٗا مِّن فِضَّةٖ وَمَعَارِجَ عَلَيۡهَا يَظۡهَرُونَ
Nếu không vì cản nhân loại trở thành một cộng đồng duy nhất (về sự vô đức tin) thì TA đã làm cho những kẻ phủ nhận Đấng Ar-Rahman có được những mái nhà bằng bạc và cả cầu thang để chúng đi lên;
Las Exégesis Árabes:
وَلِبُيُوتِهِمۡ أَبۡوَٰبٗا وَسُرُرًا عَلَيۡهَا يَتَّكِـُٔونَ
Và những cửa nhà của chúng (cũng bằng bạc) và những chiếc tràng kỷ để chúng nằm nghỉ;
Las Exégesis Árabes:
وَزُخۡرُفٗاۚ وَإِن كُلُّ ذَٰلِكَ لَمَّا مَتَٰعُ ٱلۡحَيَوٰةِ ٱلدُّنۡيَاۚ وَٱلۡأٓخِرَةُ عِندَ رَبِّكَ لِلۡمُتَّقِينَ
Và những món đồ trang trí bằng vàng. Nhưng tất cả những thứ đó chỉ là sự hưởng thụ (tạm bợ) của đời sống trần tục này. (Còn những gì của cuộc sống) Đời Sau ở nơi Thượng Đế của Ngươi mới là (sự hưởng thụ trường tồn) dành cho những người ngoan đạo.
Las Exégesis Árabes:
وَمَن يَعۡشُ عَن ذِكۡرِ ٱلرَّحۡمَٰنِ نُقَيِّضۡ لَهُۥ شَيۡطَٰنٗا فَهُوَ لَهُۥ قَرِينٞ
Người nào thờ ơ trước lời nhắc nhở của Đấng Ar-Rahman, TA sẽ để Shaytan làm bạn với y.
Las Exégesis Árabes:
وَإِنَّهُمۡ لَيَصُدُّونَهُمۡ عَنِ ٱلسَّبِيلِ وَيَحۡسَبُونَ أَنَّهُم مُّهۡتَدُونَ
Quả thật, (những tên Shaytan) này chắc chắn sẽ ngăn chúng khỏi con đường (của Allah), tuy nhiên, chúng cứ tưởng chúng đang được hướng dẫn.
Las Exégesis Árabes:
حَتَّىٰٓ إِذَا جَآءَنَا قَالَ يَٰلَيۡتَ بَيۡنِي وَبَيۡنَكَ بُعۡدَ ٱلۡمَشۡرِقَيۡنِ فَبِئۡسَ ٱلۡقَرِينُ
Cho tới khi y đến trình diện TA, y bảo (người bạn Shaytan của mình): “Ước gì ta với ngươi ở cách xa nhau bằng khoảng cách của hai phương đông. Thật tồi tệ thay một người bạn như thế!”
Las Exégesis Árabes:
وَلَن يَنفَعَكُمُ ٱلۡيَوۡمَ إِذ ظَّلَمۡتُمۡ أَنَّكُمۡ فِي ٱلۡعَذَابِ مُشۡتَرِكُونَ
(Allah phán với những kẻ vô đức tin vào Ngày Phán Xét:) “(Lời trách móc) chẳng giúp ích được gì cho các ngươi trong ngày hôm nay khi các ngươi đã làm điều sai quấy. Các ngươi phải cùng san sẻ trong sự trừng phạt.”
Las Exégesis Árabes:
أَفَأَنتَ تُسۡمِعُ ٱلصُّمَّ أَوۡ تَهۡدِي ٱلۡعُمۡيَ وَمَن كَانَ فِي ضَلَٰلٖ مُّبِينٖ
Làm sao Ngươi (hỡi Thiên Sứ) có thể khiến cho người điếc nghe được hoặc có thể hướng dẫn một kẻ mù lòa hoặc ai đó đang lạc lối rõ ràng?!
Las Exégesis Árabes:
فَإِمَّا نَذۡهَبَنَّ بِكَ فَإِنَّا مِنۡهُم مُّنتَقِمُونَ
Dù TA có đưa Ngươi đi (bằng cái chết) trước (khi TA trừng phạt chúng) thì chắc chắn TA vẫn phải trừng phạt chúng (ở đời này và cả Đời Sau).
Las Exégesis Árabes:
أَوۡ نُرِيَنَّكَ ٱلَّذِي وَعَدۡنَٰهُمۡ فَإِنَّا عَلَيۡهِم مُّقۡتَدِرُونَ
Hoặc dù TA cho Ngươi (sự trừng phạt) mà TA đã hứa với chúng thì TA thực sự thừa khả năng làm thế.
Las Exégesis Árabes:
فَٱسۡتَمۡسِكۡ بِٱلَّذِيٓ أُوحِيَ إِلَيۡكَۖ إِنَّكَ عَلَىٰ صِرَٰطٖ مُّسۡتَقِيمٖ
Vì vậy, Ngươi hãy nắm chắc những gì đã được mặc khải cho Ngươi. Quả thật, Ngươi đang ở trên con đường ngay thẳng (chính đạo).
Las Exégesis Árabes:
وَإِنَّهُۥ لَذِكۡرٞ لَّكَ وَلِقَوۡمِكَۖ وَسَوۡفَ تُسۡـَٔلُونَ
Quả thật, Nó (Qur’an) là sự nhắc nhở dành cho Ngươi và người dân của Ngươi, và rồi đây các ngươi sẽ bị chất vấn (về Nó).
Las Exégesis Árabes:
وَسۡـَٔلۡ مَنۡ أَرۡسَلۡنَا مِن قَبۡلِكَ مِن رُّسُلِنَآ أَجَعَلۡنَا مِن دُونِ ٱلرَّحۡمَٰنِ ءَالِهَةٗ يُعۡبَدُونَ
Ngươi hãy hỏi những Sứ Giả mà TA đã cử đến trước Ngươi xem TA có chỉ định những thần linh được tôn thờ ngoài Đấng Ar-Rahman không?
Las Exégesis Árabes:
وَلَقَدۡ أَرۡسَلۡنَا مُوسَىٰ بِـَٔايَٰتِنَآ إِلَىٰ فِرۡعَوۡنَ وَمَلَإِيْهِۦ فَقَالَ إِنِّي رَسُولُ رَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ
Quả thật, TA đã cử Musa mang những phép lạ của TA đến gặp Pha-ra-ông và các thủ lĩnh của hắn, Musa nói với chúng: “Ta đích thực là Sứ Giả của Thượng Đế của vũ trụ và vạn vật.”
Las Exégesis Árabes:
فَلَمَّا جَآءَهُم بِـَٔايَٰتِنَآ إِذَا هُم مِّنۡهَا يَضۡحَكُونَ
Nhưng khi (Musa) mang những phép lạ của TA đến gặp chúng thì chúng cười nhạo cho những phép lạ đó.
Las Exégesis Árabes:
وَمَا نُرِيهِم مِّنۡ ءَايَةٍ إِلَّا هِيَ أَكۡبَرُ مِنۡ أُخۡتِهَاۖ وَأَخَذۡنَٰهُم بِٱلۡعَذَابِ لَعَلَّهُمۡ يَرۡجِعُونَ
TA lần lượt cho chúng thấy các phép lạ, cái sau lớn hơn cái trước, và TA đã trừng phạt chúng, mong chúng (biết thức tỉnh) mà quay về (với chính đạo).
Las Exégesis Árabes:
وَقَالُواْ يَٰٓأَيُّهَ ٱلسَّاحِرُ ٱدۡعُ لَنَا رَبَّكَ بِمَا عَهِدَ عِندَكَ إِنَّنَا لَمُهۡتَدُونَ
Chúng bảo (Musa): “Này tên phù thủy! Ngươi hãy cầu xin Thượng Đế của Ngươi giúp bọn ta thoát khỏi những gì mà Ngài đã hứa với Ngươi, chắc chắn lúc đó bọn ta sẽ được hướng dẫn đúng đường.”
Las Exégesis Árabes:
فَلَمَّا كَشَفۡنَا عَنۡهُمُ ٱلۡعَذَابَ إِذَا هُمۡ يَنكُثُونَ
Tuy nhiên, khi TA lấy đi khỏi chúng sự trừng phạt thì chúng phá vỡ lời hứa (của chúng).
Las Exégesis Árabes:
وَنَادَىٰ فِرۡعَوۡنُ فِي قَوۡمِهِۦ قَالَ يَٰقَوۡمِ أَلَيۡسَ لِي مُلۡكُ مِصۡرَ وَهَٰذِهِ ٱلۡأَنۡهَٰرُ تَجۡرِي مِن تَحۡتِيٓۚ أَفَلَا تُبۡصِرُونَ
Pha-ra-ông đã tuyên bố với đám dân của hắn: “Này hỡi dân ta! Chẳng phải quyền thống trị xứ Ai Cập (này) cũng như những con sông đang chảy bên dưới ta đều nằm trong tay ta đó sao? Lẽ nào các ngươi không nhìn thấy?”
Las Exégesis Árabes:
أَمۡ أَنَا۠ خَيۡرٞ مِّنۡ هَٰذَا ٱلَّذِي هُوَ مَهِينٞ وَلَا يَكَادُ يُبِينُ
“Hoặc lẽ nào ta không trội hơn tên (Musa) này, một kẻ đáng khinh và ăn nói không được lưu loát?”
Las Exégesis Árabes:
فَلَوۡلَآ أُلۡقِيَ عَلَيۡهِ أَسۡوِرَةٞ مِّن ذَهَبٍ أَوۡ جَآءَ مَعَهُ ٱلۡمَلَٰٓئِكَةُ مُقۡتَرِنِينَ
“Đúng ra y phải được ban cho vòng vàng hoặc phải được Thiên Thần tháp tùng, (như thế mới hợp lý)!”
Las Exégesis Árabes:
فَٱسۡتَخَفَّ قَوۡمَهُۥ فَأَطَاعُوهُۚ إِنَّهُمۡ كَانُواْ قَوۡمٗا فَٰسِقِينَ
(Pha-ra-ông) đã đánh lừa người dân của hắn khiến chúng theo hắn. Quả thật, chúng là một đám người bất tuân và nổi loạn.
Las Exégesis Árabes:
فَلَمَّآ ءَاسَفُونَا ٱنتَقَمۡنَا مِنۡهُمۡ فَأَغۡرَقۡنَٰهُمۡ أَجۡمَعِينَ
Vì vậy, khi chúng chọc giận TA, TA đã bắt phạt chúng. TA đã nhấn chìm tất cả bọn chúng (trong biển hồng hải).
Las Exégesis Árabes:
فَجَعَلۡنَٰهُمۡ سَلَفٗا وَمَثَلٗا لِّلۡأٓخِرِينَ
TA đã lấy chúng làm một tiền lệ và bài học cho hậu thế.
Las Exégesis Árabes:
۞ وَلَمَّا ضُرِبَ ٱبۡنُ مَرۡيَمَ مَثَلًا إِذَا قَوۡمُكَ مِنۡهُ يَصِدُّونَ
Khi con trai (Ysa) của Maryam được đưa ra làm một hình ảnh thí dụ[3] thì người dân của Ngươi (Thiên Sứ) la ó (phản đối) về điều đó.
[3] Allah phán: {Quả thật, các ngươi (hỡi những kẻ thờ đa thần) và những vật mà các ngươi thờ phượng ngoài Allah sẽ là chất đốt của Hỏa Ngục, nơi mà các ngươi sẽ phải đi vào.} (Chương 23 – Al-Ambiya’, câu 98). Những kẻ đa thần Quraish cho rằng Ysa con trai của Maryam (tức Giêsu), người được các Kitô hữu tôn thờ, nằm trong lời phán này, nên chúng la lối phản đối, chúng nói: “Quả thật Ysa và các Thiên Thần đều sẽ vào Hỏa Ngục.” Thế là, Allah phán: {Quả thật, những ai mà TA đã khẳng định họ tốt thì sẽ được đưa ra xa khỏi đó.} (Chương 23 – Al-Ambiya’, câu 101).
Las Exégesis Árabes:
وَقَالُوٓاْ ءَأَٰلِهَتُنَا خَيۡرٌ أَمۡ هُوَۚ مَا ضَرَبُوهُ لَكَ إِلَّا جَدَلَۢاۚ بَلۡ هُمۡ قَوۡمٌ خَصِمُونَ
Chúng bảo: “Những thần linh của bọn ta tốt hay (Ysa) tốt hơn?” Chúng đưa vấn đề đó ra cho Ngươi chỉ vì muốn tranh cãi mà thôi. Không! Chúng đích thực là một đám người thích tranh cãi.
Las Exégesis Árabes:
إِنۡ هُوَ إِلَّا عَبۡدٌ أَنۡعَمۡنَا عَلَيۡهِ وَجَعَلۡنَٰهُ مَثَلٗا لِّبَنِيٓ إِسۡرَٰٓءِيلَ
(Ysa) chỉ là một người bề tôi (của TA). TA đã ban ân cho Y (khi cử phái Y làm Sứ Giả của TA) và lấy Y làm một tấm gương cho con cháu của Israel.
Las Exégesis Árabes:
وَلَوۡ نَشَآءُ لَجَعَلۡنَا مِنكُم مَّلَٰٓئِكَةٗ فِي ٱلۡأَرۡضِ يَخۡلُفُونَ
Nếu muốn, TA đã thay thế các ngươi (hỡi con cháu Adam) bởi các Thiên Thần để Họ nối tiếp nhau trên trái đất.
Las Exégesis Árabes:
وَإِنَّهُۥ لَعِلۡمٞ لِّلسَّاعَةِ فَلَا تَمۡتَرُنَّ بِهَا وَٱتَّبِعُونِۚ هَٰذَا صِرَٰطٞ مُّسۡتَقِيمٞ
(Ysa) thực sự là một dấu hiệu (báo trước) cho Giờ Tận Thế sắp xảy ra, vì vậy, các ngươi chớ đừng hoài nghi về điều đó mà hãy theo TA. Đây là con đường ngay chính.
Las Exégesis Árabes:
وَلَا يَصُدَّنَّكُمُ ٱلشَّيۡطَٰنُۖ إِنَّهُۥ لَكُمۡ عَدُوّٞ مُّبِينٞ
Các ngươi đừng để Shaytan cản trở các ngươi (theo con đường ngay chính). Hắn thực sự là kẻ thù công khai của các ngươi.
Las Exégesis Árabes:
وَلَمَّا جَآءَ عِيسَىٰ بِٱلۡبَيِّنَٰتِ قَالَ قَدۡ جِئۡتُكُم بِٱلۡحِكۡمَةِ وَلِأُبَيِّنَ لَكُم بَعۡضَ ٱلَّذِي تَخۡتَلِفُونَ فِيهِۖ فَٱتَّقُواْ ٱللَّهَ وَأَطِيعُونِ
Khi Ysa đến với những bằng chứng rõ ràng, Y nói: “Quả thật, Ta mang đến cho các người điều khôn ngoan và Ta đến để làm sáng tỏ một vài điểm mà các người bất đồng nhau. Vì vậy, các ngươi hãy sợ Allah và vâng lời Ta.”
Las Exégesis Árabes:
إِنَّ ٱللَّهَ هُوَ رَبِّي وَرَبُّكُمۡ فَٱعۡبُدُوهُۚ هَٰذَا صِرَٰطٞ مُّسۡتَقِيمٞ
“Thật vậy, Allah là Thượng Đế của Ta và là Thượng Đế của các người, vì vậy, các người hãy thờ phượng Ngài. Đây là con đường ngay thẳng (chính đạo).”
Las Exégesis Árabes:
فَٱخۡتَلَفَ ٱلۡأَحۡزَابُ مِنۢ بَيۡنِهِمۡۖ فَوَيۡلٞ لِّلَّذِينَ ظَلَمُواْ مِنۡ عَذَابِ يَوۡمٍ أَلِيمٍ
Tuy nhiên, các giáo phái trong số chúng đã bất đồng với nhau (về sự việc của Ysa). Vì vậy, thật khốn cho những kẻ làm điều sai quấy về sự trừng phạt của Ngày đau đớn!
Las Exégesis Árabes:
هَلۡ يَنظُرُونَ إِلَّا ٱلسَّاعَةَ أَن تَأۡتِيَهُم بَغۡتَةٗ وَهُمۡ لَا يَشۡعُرُونَ
Có phải chúng chỉ đang chờ đợi Giờ Tận Thế bất ngờ xảy đến trong lúc chúng không hay biết gì chăng?!
Las Exégesis Árabes:
ٱلۡأَخِلَّآءُ يَوۡمَئِذِۭ بَعۡضُهُمۡ لِبَعۡضٍ عَدُوٌّ إِلَّا ٱلۡمُتَّقِينَ
Những người bạn thân tình vào Ngày đó sẽ trở thành kẻ thù của nhau ngoại trừ những người ngoan đạo.
Las Exégesis Árabes:
يَٰعِبَادِ لَا خَوۡفٌ عَلَيۡكُمُ ٱلۡيَوۡمَ وَلَآ أَنتُمۡ تَحۡزَنُونَ
(Allah sẽ phán bảo họ): “Hỡi bầy tôi của TA! Ngày hôm nay, các ngươi sẽ không lo sợ cũng sẽ không buồn phiền.”
Las Exégesis Árabes:
ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ بِـَٔايَٰتِنَا وَكَانُواْ مُسۡلِمِينَ
“(Các ngươi là) những người đã có đức tin nơi các Lời Mặc Khải của TA và là những người Muslim (qui phục TA).”
Las Exégesis Árabes:
ٱدۡخُلُواْ ٱلۡجَنَّةَ أَنتُمۡ وَأَزۡوَٰجُكُمۡ تُحۡبَرُونَ
“Các ngươi hãy vào Thiên Đàng cùng với vợ của các ngươi.”
Las Exégesis Árabes:
يُطَافُ عَلَيۡهِم بِصِحَافٖ مِّن ذَهَبٖ وَأَكۡوَابٖۖ وَفِيهَا مَا تَشۡتَهِيهِ ٱلۡأَنفُسُ وَتَلَذُّ ٱلۡأَعۡيُنُۖ وَأَنتُمۡ فِيهَا خَٰلِدُونَ
Đĩa ăn và tách uống bằng vàng sẽ được chuyền đi vòng quanh họ. Trong đó, có bất cứ thứ gì linh hồn mong ước và (những gì) mê hoặc đôi mắt. Và các ngươi (hỡi những người ngoan đạo) sẽ ở trong đó mãi mãi.
Las Exégesis Árabes:
وَتِلۡكَ ٱلۡجَنَّةُ ٱلَّتِيٓ أُورِثۡتُمُوهَا بِمَا كُنتُمۡ تَعۡمَلُونَ
Đó là Thiên Đàng mà các ngươi sẽ thừa hưởng bởi những việc (hành đạo) mà các ngươi đã từng làm (trên thế gian).
Las Exégesis Árabes:
لَكُمۡ فِيهَا فَٰكِهَةٞ كَثِيرَةٞ مِّنۡهَا تَأۡكُلُونَ
Trong đó, các ngươi sẽ có nhiều loại hoa quả để ăn.
Las Exégesis Árabes:
إِنَّ ٱلۡمُجۡرِمِينَ فِي عَذَابِ جَهَنَّمَ خَٰلِدُونَ
Thật vậy, những tên tội lỗi sẽ ở trong sự trừng phạt của Hỏa Ngục, chúng vĩnh viễn (ở lại đó).
Las Exégesis Árabes:
لَا يُفَتَّرُ عَنۡهُمۡ وَهُمۡ فِيهِ مُبۡلِسُونَ
Trong đó, chúng sẽ không được giảm nhẹ hình phạt và chúng sẽ vô cùng tuyệt vọng.
Las Exégesis Árabes:
وَمَا ظَلَمۡنَٰهُمۡ وَلَٰكِن كَانُواْ هُمُ ٱلظَّٰلِمِينَ
TA đã không bất công với chúng mà chính chúng là những kẻ bất công (với bản thân chúng).
Las Exégesis Árabes:
وَنَادَوۡاْ يَٰمَٰلِكُ لِيَقۡضِ عَلَيۡنَا رَبُّكَۖ قَالَ إِنَّكُم مَّٰكِثُونَ
Chúng sẽ kêu la (van xin): “Hỡi vị cai quản (Hỏa Ngục)! Hãy xin Thượng Đế của ngài chấm dứt chúng tôi cho xong! (Vị cai quản Hỏa Ngục) đáp: “Chắc các ngươi sẽ phải vĩnh viễn ở lại đây.”
Las Exégesis Árabes:
لَقَدۡ جِئۡنَٰكُم بِٱلۡحَقِّ وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَكُمۡ لِلۡحَقِّ كَٰرِهُونَ
Quả thật, TA (Allah) đã mang Chân Lý đến cho các ngươi nhưng đa số các ngươi ghét Chân Lý.
Las Exégesis Árabes:
أَمۡ أَبۡرَمُوٓاْ أَمۡرٗا فَإِنَّا مُبۡرِمُونَ
Lẽ nào chúng sắp đặt công việc?! Không, chính TA mới là Đấng sắp đặt.
Las Exégesis Árabes:
أَمۡ يَحۡسَبُونَ أَنَّا لَا نَسۡمَعُ سِرَّهُمۡ وَنَجۡوَىٰهُمۚ بَلَىٰ وَرُسُلُنَا لَدَيۡهِمۡ يَكۡتُبُونَ
Hoặc lẽ nào chúng nghĩ rằng TA không nghe thấy những điều bí mật và những cuộc trò chuyện riêng tư của chúng?! Không, các Sứ Giả của TA luôn ở cạnh chúng không ngừng ghi chép lại.
Las Exégesis Árabes:
قُلۡ إِن كَانَ لِلرَّحۡمَٰنِ وَلَدٞ فَأَنَا۠ أَوَّلُ ٱلۡعَٰبِدِينَ
Ngươi (Thiên Sứ) hãy nói với chúng: “Nếu Đấng Ar-Rahman có một đứa con trai thì Ta sẽ là người thờ phượng đầu tiên.”
Las Exégesis Árabes:
سُبۡحَٰنَ رَبِّ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ رَبِّ ٱلۡعَرۡشِ عَمَّا يَصِفُونَ
Quang vinh và trong sạch thay Thượng Đế của các tầng trời và trái đất, Thượng Đế của chiếc Ngai Vương, Ngài vượt hẳn những gì chúng đã qui cho Ngài.
Las Exégesis Árabes:
فَذَرۡهُمۡ يَخُوضُواْ وَيَلۡعَبُواْ حَتَّىٰ يُلَٰقُواْ يَوۡمَهُمُ ٱلَّذِي يُوعَدُونَ
Vì vậy, Ngươi hãy cứ để mặc chúng trò chuyện một cách vô ích và cứ để mặc chúng vui chơi thỏa thích cho đến khi chúng đối diện với Ngày mà chúng đã được hứa.
Las Exégesis Árabes:
وَهُوَ ٱلَّذِي فِي ٱلسَّمَآءِ إِلَٰهٞ وَفِي ٱلۡأَرۡضِ إِلَٰهٞۚ وَهُوَ ٱلۡحَكِيمُ ٱلۡعَلِيمُ
Ngài (Allah) là Thượng Đế (duy nhất) trên trời và là Thượng Đế (duy nhất) trên trái đất; Ngài là Đấng Chí Minh, Đấng Toàn Tri.
Las Exégesis Árabes:
وَتَبَارَكَ ٱلَّذِي لَهُۥ مُلۡكُ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ وَمَا بَيۡنَهُمَا وَعِندَهُۥ عِلۡمُ ٱلسَّاعَةِ وَإِلَيۡهِ تُرۡجَعُونَ
Phúc thay Đấng nắm quyền thống trị các tầng trời, trái đất và vạn vật giữa trời đất; Ngài biết rõ Giờ Tận Thế và tất cả các ngươi sẽ được đưa trở về trình diện Ngài.
Las Exégesis Árabes:
وَلَا يَمۡلِكُ ٱلَّذِينَ يَدۡعُونَ مِن دُونِهِ ٱلشَّفَٰعَةَ إِلَّا مَن شَهِدَ بِٱلۡحَقِّ وَهُمۡ يَعۡلَمُونَ
Những kẻ mà chúng khấn vái ngoài Allah không có quyền can thiệp (ở nơi Allah) ngoại trừ những ai chứng nhận Chân Lý và hiểu biết rõ (về Nó).
Las Exégesis Árabes:
وَلَئِن سَأَلۡتَهُم مَّنۡ خَلَقَهُمۡ لَيَقُولُنَّ ٱللَّهُۖ فَأَنَّىٰ يُؤۡفَكُونَ
Nếu Ngươi có hỏi chúng “Ai đã tạo hóa các người?” thì chúng chắc chắn sẽ trả lời “Allah!” Vậy, sao chúng lại lánh xa Ngài?!
Las Exégesis Árabes:
وَقِيلِهِۦ يَٰرَبِّ إِنَّ هَٰٓؤُلَآءِ قَوۡمٞ لَّا يُؤۡمِنُونَ
(Allah thừa nhận) lời than của Thiên Sứ: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Dân chúng của bề tôi đã không có đức tin.”
Las Exégesis Árabes:
فَٱصۡفَحۡ عَنۡهُمۡ وَقُلۡ سَلَٰمٞۚ فَسَوۡفَ يَعۡلَمُونَ
Vì vậy, Ngươi hãy lánh xa chúng và nói: “Chào bằng an!” Rồi đây chúng sẽ biết (hình phạt mà chúng sẽ phải đối mặt).
Las Exégesis Árabes:
 
Traducción de significados Capítulo: Sura Az-Zukhruf
Índice de Capítulos Número de página
 
Traducción de los significados del Sagrado Corán - Traducción al vietnamita - Centro de traducción Rwwad - Índice de traducciones

Traducción del significado del Corán al vietnamita por el Centro de traducción Ruwwad en cooperación con Islamhouse.com

Cerrar