Traduction des sens du Noble Coran - Traduction vietnamienne - Centre Rawwâd de traduction * - Lexique des traductions

XML CSV Excel API
Please review the Terms and Policies

Traduction des sens Sourate: YOUSOUF   Verset:

Chương Yusuf

الٓرۚ تِلۡكَ ءَايَٰتُ ٱلۡكِتَٰبِ ٱلۡمُبِينِ
Alif. Lam. Ra. Đây là những câu của một Kinh Sách rõ ràng (không có sự mơ hồ, khó hiểu).
Les exégèses en arabe:
إِنَّآ أَنزَلۡنَٰهُ قُرۡءَٰنًا عَرَبِيّٗا لَّعَلَّكُمۡ تَعۡقِلُونَ
Quả thật, TA (Allah) đã ban Nó xuống dưới dạng Qur’an (một bài đọc) bằng tiếng Ả-rập mà các ngươi có thể hiểu.
Les exégèses en arabe:
نَحۡنُ نَقُصُّ عَلَيۡكَ أَحۡسَنَ ٱلۡقَصَصِ بِمَآ أَوۡحَيۡنَآ إِلَيۡكَ هَٰذَا ٱلۡقُرۡءَانَ وَإِن كُنتَ مِن قَبۡلِهِۦ لَمِنَ ٱلۡغَٰفِلِينَ
(Này Thiên Sứ Muhammad), qua những điều TA mặc khải cho Ngươi trong Qur’an này, TA kể cho Ngươi nghe một câu chuyện hay nhất mà Ngươi chưa từng biết đến trước đây.
Les exégèses en arabe:
إِذۡ قَالَ يُوسُفُ لِأَبِيهِ يَٰٓأَبَتِ إِنِّي رَأَيۡتُ أَحَدَ عَشَرَ كَوۡكَبٗا وَٱلشَّمۡسَ وَٱلۡقَمَرَ رَأَيۡتُهُمۡ لِي سَٰجِدِينَ
(Câu chuyện bắt đầu) khi Yusuf (còn là một đứa trẻ) nói với Cha của mình (Ya’qub): “Thưa Cha, quả thật con đã thấy (trong giấc mơ) mười một ngôi sao cùng với mặt trời và cả mặt trăng nữa, con thấy chúng quỳ lạy con.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ يَٰبُنَيَّ لَا تَقۡصُصۡ رُءۡيَاكَ عَلَىٰٓ إِخۡوَتِكَ فَيَكِيدُواْ لَكَ كَيۡدًاۖ إِنَّ ٱلشَّيۡطَٰنَ لِلۡإِنسَٰنِ عَدُوّٞ مُّبِينٞ
(Ya’qub) bảo (Yusuf, con trai nhỏ của mình): “Này con trai, con đừng kể lại điều con đã thấy trong giấc mơ cho các anh của con. (Cha sợ do lòng ganh tị), các anh của con có thể lên kế hoạch làm những điều không tốt đối với con, bởi quả thật Shaytan là kẻ thù công khai của con người.”
Les exégèses en arabe:
وَكَذَٰلِكَ يَجۡتَبِيكَ رَبُّكَ وَيُعَلِّمُكَ مِن تَأۡوِيلِ ٱلۡأَحَادِيثِ وَيُتِمُّ نِعۡمَتَهُۥ عَلَيۡكَ وَعَلَىٰٓ ءَالِ يَعۡقُوبَ كَمَآ أَتَمَّهَا عَلَىٰٓ أَبَوَيۡكَ مِن قَبۡلُ إِبۡرَٰهِيمَ وَإِسۡحَٰقَۚ إِنَّ رَبَّكَ عَلِيمٌ حَكِيمٞ
“(Việc con nhìn thấy những gì trong giấc mơ) như thế, có nghĩa là Thượng Đế của con đã lựa chọn con. Rồi đây Ngài sẽ dạy con cách giải mã giấc mơ và Ngài sẽ hoàn thiện ân huệ của Ngài cho con và cho dòng dõi của Ya’qub giống như Ngài đã hoàn thiện ân huệ của Ngài cho các tổ phụ của con trước đây, Ibrahim và Is-haaq. Thật vậy, Thượng Đế của con là Đấng Hiểu Biết, Đấng Thông Thái.”
Les exégèses en arabe:
۞ لَّقَدۡ كَانَ فِي يُوسُفَ وَإِخۡوَتِهِۦٓ ءَايَٰتٞ لِّلسَّآئِلِينَ
Quả thật, trong câu chuyện của Yusuf và các anh của Y là những bài học cho những ai hỏi tìm (chân lý).
Les exégèses en arabe:
إِذۡ قَالُواْ لَيُوسُفُ وَأَخُوهُ أَحَبُّ إِلَىٰٓ أَبِينَا مِنَّا وَنَحۡنُ عُصۡبَةٌ إِنَّ أَبَانَا لَفِي ضَلَٰلٖ مُّبِينٍ
Khi (các anh cùng cha khác mẹ của Yusuf) nói (với nhau): “Yusuf và đứa em của nó được cha yêu thương nhiều hơn anh em bọn mình mặc dù anh em bọn mình đông và mạnh hơn, rõ ràng cha của chúng ta đã sai lầm.”
Les exégèses en arabe:
ٱقۡتُلُواْ يُوسُفَ أَوِ ٱطۡرَحُوهُ أَرۡضٗا يَخۡلُ لَكُمۡ وَجۡهُ أَبِيكُمۡ وَتَكُونُواْ مِنۢ بَعۡدِهِۦ قَوۡمٗا صَٰلِحِينَ
(Một người trong bọn chúng nói): “Hãy giết chết Yusuf hoặc hãy đem nó đi bỏ ở một nơi khác, (có như vậy) các người mới giành được sự yêu thương trọn vẹn của cha, (có như vậy) sau này các người mới hy vọng trở thành những người tốt (trong mắt cha).”
Les exégèses en arabe:
قَالَ قَآئِلٞ مِّنۡهُمۡ لَا تَقۡتُلُواْ يُوسُفَ وَأَلۡقُوهُ فِي غَيَٰبَتِ ٱلۡجُبِّ يَلۡتَقِطۡهُ بَعۡضُ ٱلسَّيَّارَةِ إِن كُنتُمۡ فَٰعِلِينَ
Một người khác trong bọn chúng nói: “Đừng giết Yusuf. Nếu các người thực sự muốn loại trừ nó thì hãy đem nó đi bỏ xuống đáy giếng; một số đoàn khách thương sẽ nhặt nó (và mang nó đi nơi khác).”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ يَٰٓأَبَانَا مَا لَكَ لَا تَأۡمَ۬نَّا عَلَىٰ يُوسُفَ وَإِنَّا لَهُۥ لَنَٰصِحُونَ
(Nhất trí đem Yusuf đi bỏ, chúng đến gặp Ya’qub) nói: “Thưa Cha của chúng con, sao cha lại không tin tưởng mà giao Yusuf cho chúng con (trông chừng), quả thật chúng con luôn mong điều (tốt đẹp) cho nó kia mà.”
Les exégèses en arabe:
أَرۡسِلۡهُ مَعَنَا غَدٗا يَرۡتَعۡ وَيَلۡعَبۡ وَإِنَّا لَهُۥ لَحَٰفِظُونَ
“Ngày mai, cha hãy yên tâm để em nó ra ngoài chơi cùng chúng con, chắc chắn chúng con sẽ trông chừng và bảo vệ em thật tốt.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ إِنِّي لَيَحۡزُنُنِيٓ أَن تَذۡهَبُواْ بِهِۦ وَأَخَافُ أَن يَأۡكُلَهُ ٱلذِّئۡبُ وَأَنتُمۡ عَنۡهُ غَٰفِلُونَ
(Ya’qub) nói: “Thật vậy, cha cảm thấy buồn khi các con đưa em đi chơi xa (vì cha không thể chịu được khi rời xa nó); hơn nữa, cha sợ rằng sói sẽ ăn thịt nó khi các con lơ là do (mải mê vui chơi).”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ لَئِنۡ أَكَلَهُ ٱلذِّئۡبُ وَنَحۡنُ عُصۡبَةٌ إِنَّآ إِذٗا لَّخَٰسِرُونَ
Chúng đáp: “Nếu sói ăn thịt em trong khi chúng con đông và mạnh thế này thì chúng con quả là một đám người thất bại.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا ذَهَبُواْ بِهِۦ وَأَجۡمَعُوٓاْ أَن يَجۡعَلُوهُ فِي غَيَٰبَتِ ٱلۡجُبِّۚ وَأَوۡحَيۡنَآ إِلَيۡهِ لَتُنَبِّئَنَّهُم بِأَمۡرِهِمۡ هَٰذَا وَهُمۡ لَا يَشۡعُرُونَ
Vậy là chúng đã đưa (Yusuf) ra đi, chúng đồng lòng bỏ Y xuống đáy giếng. TA đã mặc khải cho (Yusuf): “(Sau này, vào một ngày nào đó) Ngươi chắc chắn sẽ cho chúng biết về việc làm này của chúng và chúng sẽ không nhận ra (Ngươi).”
Les exégèses en arabe:
وَجَآءُوٓ أَبَاهُمۡ عِشَآءٗ يَبۡكُونَ
Rồi vào đầu hôm, chúng đến gặp cha của chúng, khóc lóc.
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ يَٰٓأَبَانَآ إِنَّا ذَهَبۡنَا نَسۡتَبِقُ وَتَرَكۡنَا يُوسُفَ عِندَ مَتَٰعِنَا فَأَكَلَهُ ٱلذِّئۡبُۖ وَمَآ أَنتَ بِمُؤۡمِنٖ لَّنَا وَلَوۡ كُنَّا صَٰدِقِينَ
Chúng nói: “Thưa Cha của chúng con, chúng con đã cùng nhau chạy đua và bỏ lại Yusuf ở chỗ đồ đạc của chúng con, thế là một con sói đã ăn thịt nó. Có lẽ cha không tin chúng con mặc dù chúng con nói thật.”
Les exégèses en arabe:
وَجَآءُو عَلَىٰ قَمِيصِهِۦ بِدَمٖ كَذِبٖۚ قَالَ بَلۡ سَوَّلَتۡ لَكُمۡ أَنفُسُكُمۡ أَمۡرٗاۖ فَصَبۡرٞ جَمِيلٞۖ وَٱللَّهُ ٱلۡمُسۡتَعَانُ عَلَىٰ مَا تَصِفُونَ
Rồi chúng mang ra chiếc áo của (Yusuf) được bôi máu giả (cho Ya’qub xem). (Ya’qub) nói: “Không, chính các ngươi đã ngụy tạo và bày trò. Vì vậy sự kiên nhẫn là cách tốt nhất, và Allah là Đấng mà Ta cầu xin sự trợ giúp về điều mà các ngươi mô tả.”
Les exégèses en arabe:
وَجَآءَتۡ سَيَّارَةٞ فَأَرۡسَلُواْ وَارِدَهُمۡ فَأَدۡلَىٰ دَلۡوَهُۥۖ قَالَ يَٰبُشۡرَىٰ هَٰذَا غُلَٰمٞۚ وَأَسَرُّوهُ بِضَٰعَةٗۚ وَٱللَّهُ عَلِيمُۢ بِمَا يَعۡمَلُونَ
Rồi có một đoàn khách thương đến (dừng chân gần cái giếng). Họ cử một người đi lấy nước cho họ. Người đó thả cái gàu xuống giếng, (khi kéo chiếc gầu lên), y hô to: “Tin tốt! (Kéo được) một cậu bé đây này!” Rồi họ đã giấu Yusuf (như một món hàng). Và Allah biết hết những gì họ làm.
Les exégèses en arabe:
وَشَرَوۡهُ بِثَمَنِۭ بَخۡسٖ دَرَٰهِمَ مَعۡدُودَةٖ وَكَانُواْ فِيهِ مِنَ ٱلزَّٰهِدِينَ
(Sau đó, đoàn khách thương) đã bán (Yusuf) với vài đồng bạc lẻ bởi vì đối với họ (Yusuf) chẳng có giá trị gì cả.
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ ٱلَّذِي ٱشۡتَرَىٰهُ مِن مِّصۡرَ لِٱمۡرَأَتِهِۦٓ أَكۡرِمِي مَثۡوَىٰهُ عَسَىٰٓ أَن يَنفَعَنَآ أَوۡ نَتَّخِذَهُۥ وَلَدٗاۚ وَكَذَٰلِكَ مَكَّنَّا لِيُوسُفَ فِي ٱلۡأَرۡضِ وَلِنُعَلِّمَهُۥ مِن تَأۡوِيلِ ٱلۡأَحَادِيثِۚ وَٱللَّهُ غَالِبٌ عَلَىٰٓ أَمۡرِهِۦ وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَ ٱلنَّاسِ لَا يَعۡلَمُونَ
Một người Ai Cập đã mua Yusuf, y nói với vợ của mình: “Nàng hãy chăm sóc tốt đứa trẻ này, có thể nó sẽ có lợi cho chúng ta hoặc chúng ta sẽ nhận nó làm con trai.” Như thế đó, TA đã định cư Yusuf ở một vùng đất (xa lạ) để TA dạy Y cách giải mã giấc mơ. Quả thật, Allah là Đấng toàn quyền định đoạt công việc của Ngài, nhưng hầu hết nhân loại không biết.
Les exégèses en arabe:
وَلَمَّا بَلَغَ أَشُدَّهُۥٓ ءَاتَيۡنَٰهُ حُكۡمٗا وَعِلۡمٗاۚ وَكَذَٰلِكَ نَجۡزِي ٱلۡمُحۡسِنِينَ
Và khi Yusuf trưởng thành, TA đã ban cho Y sự khôn ngoan và nguồn kiến thức. Đó là cách mà TA đãi ngộ những người làm tốt.
Les exégèses en arabe:
وَرَٰوَدَتۡهُ ٱلَّتِي هُوَ فِي بَيۡتِهَا عَن نَّفۡسِهِۦ وَغَلَّقَتِ ٱلۡأَبۡوَٰبَ وَقَالَتۡ هَيۡتَ لَكَۚ قَالَ مَعَاذَ ٱللَّهِۖ إِنَّهُۥ رَبِّيٓ أَحۡسَنَ مَثۡوَايَۖ إِنَّهُۥ لَا يُفۡلِحُ ٱلظَّٰلِمُونَ
Người phụ nữ mà (Yusuf) đang tá túc trong nhà của ả đã tìm cách quyến rũ Y. Ả đã đóng chặt các cửa phòng và mời gọi (Yusuf): “Nào, hãy đến đây cùng ta!” (Yusuf) nói: “Tôi cầu xin Allah che chở (tránh khỏi điều tội lỗi). Quả thật, ông chủ của tôi đã cư xử rất tử tế với tôi và quả thật kẻ làm điều sai quấy sẽ không thành công.
Les exégèses en arabe:
وَلَقَدۡ هَمَّتۡ بِهِۦۖ وَهَمَّ بِهَا لَوۡلَآ أَن رَّءَا بُرۡهَٰنَ رَبِّهِۦۚ كَذَٰلِكَ لِنَصۡرِفَ عَنۡهُ ٱلسُّوٓءَ وَٱلۡفَحۡشَآءَۚ إِنَّهُۥ مِنۡ عِبَادِنَا ٱلۡمُخۡلَصِينَ
Quả thật, (người phụ nữ đó) thực sự ham muốn (thân xác của) Y và Y cũng gần động lòng với nữ ta nếu như Y không nhìn thấy bằng chứng của Thượng Đế của Y. Bằng cách đó, TA đã cứu Y thoát khỏi hành động sai trái và vô luân. Thật vậy, Y là một trong đám bầy tôi chính trực của TA.
Les exégèses en arabe:
وَٱسۡتَبَقَا ٱلۡبَابَ وَقَدَّتۡ قَمِيصَهُۥ مِن دُبُرٖ وَأَلۡفَيَا سَيِّدَهَا لَدَا ٱلۡبَابِۚ قَالَتۡ مَا جَزَآءُ مَنۡ أَرَادَ بِأَهۡلِكَ سُوٓءًا إِلَّآ أَن يُسۡجَنَ أَوۡ عَذَابٌ أَلِيمٞ
Cả hai cùng chạy ra cửa (Yusuf thì muốn thoát thân, còn người phụ nữ kia thì muốn ngăn Y lại). Nữ ta đã kéo rách áo của (Yusuf) từ sau lưng. Cả hai cùng giáp mặt người chồng của nữ ta tại cửa, (lúc đó) nữ ta liền nói: “Đâu là hình phạt dành cho kẻ có ý định xấu với vợ của chàng? Hoặc là hắn phải vào tù hoặc là hắn phải chịu sự trừng phạt đau đớn!”
Les exégèses en arabe:
قَالَ هِيَ رَٰوَدَتۡنِي عَن نَّفۡسِيۚ وَشَهِدَ شَاهِدٞ مِّنۡ أَهۡلِهَآ إِن كَانَ قَمِيصُهُۥ قُدَّ مِن قُبُلٖ فَصَدَقَتۡ وَهُوَ مِنَ ٱلۡكَٰذِبِينَ
(Yusuf) nói: “Chính bà đã quyến rũ tôi.” Và một nhân chứng(1) thuộc người nhà của nữ ta đã làm chứng, nói: “Nếu áo của (Yusuf) bị rách từ phía trước thì bà ấy là người nói thật và Y là kẻ nói dối.”
(1) Có lời Tafsir rằng nhân chứng đó chính là một đứa trẻ còn nằm nôi, Allah đã cho đứa bé đó nói chuyện. Và đó là phép màu của Ngài.
Les exégèses en arabe:
وَإِن كَانَ قَمِيصُهُۥ قُدَّ مِن دُبُرٖ فَكَذَبَتۡ وَهُوَ مِنَ ٱلصَّٰدِقِينَ
“Còn nếu áo của Y bị rách từ phía sau thì bà ấy là kẻ nói dối và Y là người nói thật.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا رَءَا قَمِيصَهُۥ قُدَّ مِن دُبُرٖ قَالَ إِنَّهُۥ مِن كَيۡدِكُنَّۖ إِنَّ كَيۡدَكُنَّ عَظِيمٞ
Vì vậy, khi người chồng nhìn thấy áo của Yusuf bị rách phía sau lưng thì y nói: “Rõ ràng đây là trò của các nàng. Quả thật, trò của các nàng thật nghiêm trọng.”
Les exégèses en arabe:
يُوسُفُ أَعۡرِضۡ عَنۡ هَٰذَاۚ وَٱسۡتَغۡفِرِي لِذَنۢبِكِۖ إِنَّكِ كُنتِ مِنَ ٱلۡخَاطِـِٔينَ
“Này Yusuf, hãy bỏ qua chuyện này. Còn nàng hãy cầu xin tha thứ cho tội lỗi của mình, bởi quả thật nàng chính là người đã sai.”
Les exégèses en arabe:
۞ وَقَالَ نِسۡوَةٞ فِي ٱلۡمَدِينَةِ ٱمۡرَأَتُ ٱلۡعَزِيزِ تُرَٰوِدُ فَتَىٰهَا عَن نَّفۡسِهِۦۖ قَدۡ شَغَفَهَا حُبًّاۖ إِنَّا لَنَرَىٰهَا فِي ضَلَٰلٖ مُّبِينٖ
Các phụ nữ trong thành phố nói: “Vợ của một vị quan lớn lại đi quyến rũ chàng thanh niên trẻ của mình, chắc có lẽ nó đã làm cho bà ấy mê đắm bằng tình yêu! Quả thật, chúng ta thấy bà ta là một kẻ lầm lạc rõ ràng.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا سَمِعَتۡ بِمَكۡرِهِنَّ أَرۡسَلَتۡ إِلَيۡهِنَّ وَأَعۡتَدَتۡ لَهُنَّ مُتَّكَـٔٗا وَءَاتَتۡ كُلَّ وَٰحِدَةٖ مِّنۡهُنَّ سِكِّينٗا وَقَالَتِ ٱخۡرُجۡ عَلَيۡهِنَّۖ فَلَمَّا رَأَيۡنَهُۥٓ أَكۡبَرۡنَهُۥ وَقَطَّعۡنَ أَيۡدِيَهُنَّ وَقُلۡنَ حَٰشَ لِلَّهِ مَا هَٰذَا بَشَرًا إِنۡ هَٰذَآ إِلَّا مَلَكٞ كَرِيمٞ
Vì vậy, khi nghe những lời đàm tiếu của họ, nữ ta đã cho mời họ đến và chuẩn bị cho họ một bữa tiệc và đưa cho mỗi người một con dao. Sau đó, nữ ta bảo (Yusuf): “Hãy đi ra trình diện các quí bà.” Khi họ nhìn thấy (Yusuf), họ sững sờ (trước diện mạo tuấn tú của Y) và đã cắt tay của mình (mà không hay biết do mải mê nhìn ngắm Y), và họ nói: “Allah hoàn hảo! Đây không phải là người phàm mà là một Thiên Thần quí phái.”
Les exégèses en arabe:
قَالَتۡ فَذَٰلِكُنَّ ٱلَّذِي لُمۡتُنَّنِي فِيهِۖ وَلَقَدۡ رَٰوَدتُّهُۥ عَن نَّفۡسِهِۦ فَٱسۡتَعۡصَمَۖ وَلَئِن لَّمۡ يَفۡعَلۡ مَآ ءَامُرُهُۥ لَيُسۡجَنَنَّ وَلَيَكُونٗا مِّنَ ٱلصَّٰغِرِينَ
(Lúc bấy giờ) nữ ta lên tiếng: “Đấy là người mà quí bà đã chỉ trích tôi (rằng tôi đã quyến rũ cậu ta”. Quả thật, tôi đã tìm cách quyến rũ cậu ta nhưng cậu ta đã quyết từ chối. Nếu cậu ta không làm theo những gì tôi ra lệnh cho cậu ta thì cậu ta chắc chắn sẽ bị bỏ tù và sẽ là kẻ bị hạ nhục.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ رَبِّ ٱلسِّجۡنُ أَحَبُّ إِلَيَّ مِمَّا يَدۡعُونَنِيٓ إِلَيۡهِۖ وَإِلَّا تَصۡرِفۡ عَنِّي كَيۡدَهُنَّ أَصۡبُ إِلَيۡهِنَّ وَأَكُن مِّنَ ٱلۡجَٰهِلِينَ
(Yusuf) nói: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, chốn lao tù đối với bề tôi còn yêu thích hơn điều mà họ mời gọi bề tôi đến với nó. Nếu Ngài không giải cứu bề tôi khỏi âm mưu của những người phụ nữ kia, bề tôi có thể sẽ động lòng với họ và (lúc đó) bề tôi sẽ trở thành một kẻ ngu muội.”
Les exégèses en arabe:
فَٱسۡتَجَابَ لَهُۥ رَبُّهُۥ فَصَرَفَ عَنۡهُ كَيۡدَهُنَّۚ إِنَّهُۥ هُوَ ٱلسَّمِيعُ ٱلۡعَلِيمُ
Vì vậy, Thượng Đế của Y đã đáp lại (lời cầu khẩn của) Y. Ngài đã giải thoát Y khỏi âm mưu của các nữ kia. Quả thật, Ngài là Đấng Hằng Nghe, Đấng Hằng Biết.
Les exégèses en arabe:
ثُمَّ بَدَا لَهُم مِّنۢ بَعۡدِ مَا رَأَوُاْ ٱلۡأٓيَٰتِ لَيَسۡجُنُنَّهُۥ حَتَّىٰ حِينٖ
Rồi khi họ đã thấy các bằng chứng chứng minh (Yusuf) vô tội (nhưng họ cho rằng tốt hơn là) nên bỏ tù Y trong một thời gian.
Les exégèses en arabe:
وَدَخَلَ مَعَهُ ٱلسِّجۡنَ فَتَيَانِۖ قَالَ أَحَدُهُمَآ إِنِّيٓ أَرَىٰنِيٓ أَعۡصِرُ خَمۡرٗاۖ وَقَالَ ٱلۡأٓخَرُ إِنِّيٓ أَرَىٰنِيٓ أَحۡمِلُ فَوۡقَ رَأۡسِي خُبۡزٗا تَأۡكُلُ ٱلطَّيۡرُ مِنۡهُۖ نَبِّئۡنَا بِتَأۡوِيلِهِۦٓۖ إِنَّا نَرَىٰكَ مِنَ ٱلۡمُحۡسِنِينَ
Và có hai thanh niên cùng vào tù với (Yusuf). Một trong hai nói: “Quả thật, tôi thấy trong giấc mơ của mình rằng tôi đang ép rượu.” và người còn lại nói: “Còn tôi thấy trong giấc mơ của mình rằng tôi đội bánh mì trên đầu và con chim đang mổ ăn nó.” (Cả hai nói:) “Xin anh hãy giải mã giấc mơ đó cho chúng tôi, chúng tôi thực sự thấy anh là người tốt.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ لَا يَأۡتِيكُمَا طَعَامٞ تُرۡزَقَانِهِۦٓ إِلَّا نَبَّأۡتُكُمَا بِتَأۡوِيلِهِۦ قَبۡلَ أَن يَأۡتِيَكُمَاۚ ذَٰلِكُمَا مِمَّا عَلَّمَنِي رَبِّيٓۚ إِنِّي تَرَكۡتُ مِلَّةَ قَوۡمٖ لَّا يُؤۡمِنُونَ بِٱللَّهِ وَهُم بِٱلۡأٓخِرَةِ هُمۡ كَٰفِرُونَ
(Yusuf) nói: “Trước khi thức ăn được mang đến cho hai người, tôi sẽ cho hai người biết ý nghĩa của hai giấc mơ đó. (Sở dĩ, tôi biết cách giải mã giấc mơ không phải là do tôi sử dụng bùa thuật) mà là do Thượng Đế của tôi đã dạy, và do tôi đã từ bỏ tín ngưỡng của cộng đồng không có đức tin nơi Allah và nơi Đời Sau.”
Les exégèses en arabe:
وَٱتَّبَعۡتُ مِلَّةَ ءَابَآءِيٓ إِبۡرَٰهِيمَ وَإِسۡحَٰقَ وَيَعۡقُوبَۚ مَا كَانَ لَنَآ أَن نُّشۡرِكَ بِٱللَّهِ مِن شَيۡءٖۚ ذَٰلِكَ مِن فَضۡلِ ٱللَّهِ عَلَيۡنَا وَعَلَى ٱلنَّاسِ وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَ ٱلنَّاسِ لَا يَشۡكُرُونَ
“Tôi đã theo tín ngưỡng của ông cha của tôi: Ibrahim, Is-haaq và Ya’qub. Tất cả chúng tôi không tổ hợp với Allah bất cứ thứ gì. Đấy là hồng phúc mà Allah đã ban cho chúng tôi và toàn nhân loại nhưng hầu hết nhân loại không biết ơn (Ngài).”
Les exégèses en arabe:
يَٰصَٰحِبَيِ ٱلسِّجۡنِ ءَأَرۡبَابٞ مُّتَفَرِّقُونَ خَيۡرٌ أَمِ ٱللَّهُ ٱلۡوَٰحِدُ ٱلۡقَهَّارُ
“Này hai người bạn tù của tôi, nhiều Thượng Đế khác nhau tốt hơn hay chỉ một mình Allah, Đấng Duy Nhất, Đấng Thống Trị tốt hơn?”
Les exégèses en arabe:
مَا تَعۡبُدُونَ مِن دُونِهِۦٓ إِلَّآ أَسۡمَآءٗ سَمَّيۡتُمُوهَآ أَنتُمۡ وَءَابَآؤُكُم مَّآ أَنزَلَ ٱللَّهُ بِهَا مِن سُلۡطَٰنٍۚ إِنِ ٱلۡحُكۡمُ إِلَّا لِلَّهِ أَمَرَ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّآ إِيَّاهُۚ ذَٰلِكَ ٱلدِّينُ ٱلۡقَيِّمُ وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَ ٱلنَّاسِ لَا يَعۡلَمُونَ
“Những thứ mà các anh đang thờ phượng chỉ là những tên gọi do chính các anh và ông cha của các anh đã đặt cho chúng, chứ Allah đã không ban xuống bất kỳ thẩm quyền nào cho chúng cả. Mọi xét xử và định đoạt đều thuộc về một mình Allah. Ngài đã ra lệnh cho các anh chỉ thờ phượng duy nhất một mình Ngài. Đó là tôn giáo chính trực nhưng hầu hết nhân loại không biết.”
Les exégèses en arabe:
يَٰصَٰحِبَيِ ٱلسِّجۡنِ أَمَّآ أَحَدُكُمَا فَيَسۡقِي رَبَّهُۥ خَمۡرٗاۖ وَأَمَّا ٱلۡأٓخَرُ فَيُصۡلَبُ فَتَأۡكُلُ ٱلطَّيۡرُ مِن رَّأۡسِهِۦۚ قُضِيَ ٱلۡأَمۡرُ ٱلَّذِي فِيهِ تَسۡتَفۡتِيَانِ
“Này hai người bạn tù của tôi, một trong hai anh sẽ trở thành người hầu rót rượu cho chủ của mình và người còn lại sẽ bị đóng đinh trên thập tự giá và bị chim mổ trên đầu. Vấn đề mà hai anh muốn biết đã được định đoạt như vậy.”
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ لِلَّذِي ظَنَّ أَنَّهُۥ نَاجٖ مِّنۡهُمَا ٱذۡكُرۡنِي عِندَ رَبِّكَ فَأَنسَىٰهُ ٱلشَّيۡطَٰنُ ذِكۡرَ رَبِّهِۦ فَلَبِثَ فِي ٱلسِّجۡنِ بِضۡعَ سِنِينَ
(Yusuf) nói với người mà Y nghĩ anh ta sẽ được sống trong hai người bạn tù: “Anh hãy nhắc đến tôi trước chủ nhân của anh.” Tuy nhiên, Shaytan đã khiến cho người bạn tù đó quên mất việc nhắc (đến Yusuf) trước chủ nhân của mình. Vì vậy, Yusuf phải ở lại trong tù thêm vài năm.
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ ٱلۡمَلِكُ إِنِّيٓ أَرَىٰ سَبۡعَ بَقَرَٰتٖ سِمَانٖ يَأۡكُلُهُنَّ سَبۡعٌ عِجَافٞ وَسَبۡعَ سُنۢبُلَٰتٍ خُضۡرٖ وَأُخَرَ يَابِسَٰتٖۖ يَٰٓأَيُّهَا ٱلۡمَلَأُ أَفۡتُونِي فِي رُءۡيَٰيَ إِن كُنتُمۡ لِلرُّءۡيَا تَعۡبُرُونَ
Và (sau đó) nhà vua (của Ai Cập) nói (với quần thần của mình): “Quả thật, (trong giấc mơ) trẫm thấy bảy con bò béo tròn bị bảy con bò gầy nhom ăn thịt, (và trẫm thấy) bảy bông lúa xanh tươi và bảy bông lúa khô héo. Này các khanh, hãy cho trẫm biết ý nghĩa về những điều mà trẫm thấy trong giấc mơ, nếu như các khanh là những người biết giải mã giấc mơ.”
Les exégèses en arabe:
قَالُوٓاْ أَضۡغَٰثُ أَحۡلَٰمٖۖ وَمَا نَحۡنُ بِتَأۡوِيلِ ٱلۡأَحۡلَٰمِ بِعَٰلِمِينَ
Họ nói: “(Đó chỉ là) một sự hỗn độn của những giấc mơ (không đúng sự thật) và chúng thần không biết giải mã (cho những giấc mơ hỗn độn như vậy).”
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ ٱلَّذِي نَجَا مِنۡهُمَا وَٱدَّكَرَ بَعۡدَ أُمَّةٍ أَنَا۠ أُنَبِّئُكُم بِتَأۡوِيلِهِۦ فَأَرۡسِلُونِ
Một trong hai người bạn tù đã thoát được (án tử) sực nhớ đến (Yusuf) sau một thời gian dài quên lãng, y tâu (với nhà vua): “Thần sẽ cho bệ hạ biết ý nghĩa của giấc mơ, xin bệ hạ cho phép thần đi gặp (Yusuf).”
Les exégèses en arabe:
يُوسُفُ أَيُّهَا ٱلصِّدِّيقُ أَفۡتِنَا فِي سَبۡعِ بَقَرَٰتٖ سِمَانٖ يَأۡكُلُهُنَّ سَبۡعٌ عِجَافٞ وَسَبۡعِ سُنۢبُلَٰتٍ خُضۡرٖ وَأُخَرَ يَابِسَٰتٖ لَّعَلِّيٓ أَرۡجِعُ إِلَى ٱلنَّاسِ لَعَلَّهُمۡ يَعۡلَمُونَ
(Đến gặp Yusuf, y nói): “Hỡi người bạn chân thật, mong anh hãy giải thích cho tôi biết về (ý nghĩa của giấc mơ): bảy con bò béo tròn bị bảy con bò gầy nhom ăn thịt và bảy bông lúa xanh tươi cùng với bảy bông lúa khô héo. Có lẽ sau khi tôi trở về (kể lại) cho mọi người nghe, họ sẽ biết đến anh.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ تَزۡرَعُونَ سَبۡعَ سِنِينَ دَأَبٗا فَمَا حَصَدتُّمۡ فَذَرُوهُ فِي سُنۢبُلِهِۦٓ إِلَّا قَلِيلٗا مِّمَّا تَأۡكُلُونَ
(Yusuf) nói: “Các người hãy trồng liên tiếp trong bảy năm. Những gì thu hoạch được, các người hãy để nguyên nhánh bông mà dự trữ, chỉ trừ một ít để ăn.”
Les exégèses en arabe:
ثُمَّ يَأۡتِي مِنۢ بَعۡدِ ذَٰلِكَ سَبۡعٞ شِدَادٞ يَأۡكُلۡنَ مَا قَدَّمۡتُمۡ لَهُنَّ إِلَّا قَلِيلٗا مِّمَّا تُحۡصِنُونَ
“Sau đó, sẽ xảy ra bảy năm (hạn hán) liên tục, các người hãy ăn những gì mà các người đã dự trữ trước đây, ngoại trừ một ít các người sẽ phải cất giữ cẩn thận (để gieo trồng vào thời gian sau đó).”
Les exégèses en arabe:
ثُمَّ يَأۡتِي مِنۢ بَعۡدِ ذَٰلِكَ عَامٞ فِيهِ يُغَاثُ ٱلنَّاسُ وَفِيهِ يَعۡصِرُونَ
“Rồi sau đó, sẽ là một năm dân chúng được mưa và trong năm đó mọi người sẽ ép được nước trái cây (ô liu và nho).”
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ ٱلۡمَلِكُ ٱئۡتُونِي بِهِۦۖ فَلَمَّا جَآءَهُ ٱلرَّسُولُ قَالَ ٱرۡجِعۡ إِلَىٰ رَبِّكَ فَسۡـَٔلۡهُ مَا بَالُ ٱلنِّسۡوَةِ ٱلَّٰتِي قَطَّعۡنَ أَيۡدِيَهُنَّۚ إِنَّ رَبِّي بِكَيۡدِهِنَّ عَلِيمٞ
Nhà vua nói: “Các thần hãy đưa người giải mã giấc mơ đến gặp trẫm.” Nhưng khi sứ giả đến, Yusuf nói: “Anh hãy về tâu lại với chủ nhân của anh, hỏi ngài ấy về việc các quí bà đã cắt tay họ (thì sẽ xử trí) thế nào? Quả thật, Thượng Đế của ta biết rõ âm mưu của các quí bà đó.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ مَا خَطۡبُكُنَّ إِذۡ رَٰوَدتُّنَّ يُوسُفَ عَن نَّفۡسِهِۦۚ قُلۡنَ حَٰشَ لِلَّهِ مَا عَلِمۡنَا عَلَيۡهِ مِن سُوٓءٖۚ قَالَتِ ٱمۡرَأَتُ ٱلۡعَزِيزِ ٱلۡـَٰٔنَ حَصۡحَصَ ٱلۡحَقُّ أَنَا۠ رَٰوَدتُّهُۥ عَن نَّفۡسِهِۦ وَإِنَّهُۥ لَمِنَ ٱلصَّٰدِقِينَ
Nhà vua phán: “Sự tình như thế nào về việc các quí bà đã tìm cách quyến rũ Yusuf?” Họ nói: “Allah là Đấng Hoàn Hảo! Chúng thần không hề biết bất cứ điều xấu nào về (Yusuf) cả. (Lúc này) vợ của vị đại quan thú tội, nói: “Giờ đây sự thật đã rõ ràng, chính thần là người đã tìm cách quyến rũ (Yusuf), còn (Yusuf) vốn dĩ là một người ngay thẳng và trung thực.”
Les exégèses en arabe:
ذَٰلِكَ لِيَعۡلَمَ أَنِّي لَمۡ أَخُنۡهُ بِٱلۡغَيۡبِ وَأَنَّ ٱللَّهَ لَا يَهۡدِي كَيۡدَ ٱلۡخَآئِنِينَ
“Đó là vì thần muốn để cho phu quân của thần biết rằng thần không phản bội ông ấy khi ông ấy vắng mặt. Tuy nhiên, Allah không hướng dẫn kế hoạch của những kẻ phản bội.”
Les exégèses en arabe:
۞ وَمَآ أُبَرِّئُ نَفۡسِيٓۚ إِنَّ ٱلنَّفۡسَ لَأَمَّارَةُۢ بِٱلسُّوٓءِ إِلَّا مَا رَحِمَ رَبِّيٓۚ إِنَّ رَبِّي غَفُورٞ رَّحِيمٞ
“Thần không cho mình vô tội. Quả thật, dục vọng (của con người) thôi thúc điều xấu ngoại trừ ai đó được Thượng Đế thương xót. Quả thật, Thượng Đế là Đấng Tha Thứ, Đấng Nhân Từ.”
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ ٱلۡمَلِكُ ٱئۡتُونِي بِهِۦٓ أَسۡتَخۡلِصۡهُ لِنَفۡسِيۖ فَلَمَّا كَلَّمَهُۥ قَالَ إِنَّكَ ٱلۡيَوۡمَ لَدَيۡنَا مَكِينٌ أَمِينٞ
Nhà vua hạ lệnh cho các quần thần: “Các khanh hãy dẫn Yusuf đến gặp trẫm. Trẫm sẽ để Y làm việc riêng cho trẫm.” Sau khi nói chuyện với Yusuf, (nhà vua thấy được sự hiểu biết và trí tuệ của Y), nhà vua nói với Y: “Quả thật, từ ngày hôm nay, ngươi là người có địa vị cao và được tín nhiệm ở nơi ta.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ ٱجۡعَلۡنِي عَلَىٰ خَزَآئِنِ ٱلۡأَرۡضِۖ إِنِّي حَفِيظٌ عَلِيمٞ
(Yusuf) nói: “Xin bệ hạ để hạ thần phụ trách cai quản kho lương thực của đất nước (Ai Cập), chắc chắn, thần sẽ là một người bảo quản hiểu biết (đáng tin).”
Les exégèses en arabe:
وَكَذَٰلِكَ مَكَّنَّا لِيُوسُفَ فِي ٱلۡأَرۡضِ يَتَبَوَّأُ مِنۡهَا حَيۡثُ يَشَآءُۚ نُصِيبُ بِرَحۡمَتِنَا مَن نَّشَآءُۖ وَلَا نُضِيعُ أَجۡرَ ٱلۡمُحۡسِنِينَ
Bằng cách này, TA (Allah) đã định cư Yusuf ở vùng đất đó (Ai Cập) để Y sống ở bất cứ nơi nào Y muốn. TA ban lòng thương xót của TA cho bất cứ ai TA muốn, và chắc chắn TA sẽ không để mất phần thưởng của những người làm tốt.
Les exégèses en arabe:
وَلَأَجۡرُ ٱلۡأٓخِرَةِ خَيۡرٞ لِّلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَكَانُواْ يَتَّقُونَ
Và phần thưởng ở Đời Sau chắc chắn sẽ tốt hơn cho những người có đức tin và ngoan đạo.
Les exégèses en arabe:
وَجَآءَ إِخۡوَةُ يُوسُفَ فَدَخَلُواْ عَلَيۡهِ فَعَرَفَهُمۡ وَهُمۡ لَهُۥ مُنكِرُونَ
Các anh (cùng cha khác mẹ) của Yusuf đến (Ai Cập để tìm kiếm lương thực). Khi họ vào trình diện, Yusuf đã nhận ra họ nhưng họ không nhận ra Yusuf.
Les exégèses en arabe:
وَلَمَّا جَهَّزَهُم بِجَهَازِهِمۡ قَالَ ٱئۡتُونِي بِأَخٖ لَّكُم مِّنۡ أَبِيكُمۡۚ أَلَا تَرَوۡنَ أَنِّيٓ أُوفِي ٱلۡكَيۡلَ وَأَنَا۠ خَيۡرُ ٱلۡمُنزِلِينَ
Sau khi đã chuẩn bị xong phần lương thực cho họ, Yusuf nói (với họ): “Các người hãy dắt đứa em trai đang ở với cha của các người đến gặp ta. Các người không thấy rằng ta là người toàn quyền đong đo lương thực và là người hiếu khách sao?!”
Les exégèses en arabe:
فَإِن لَّمۡ تَأۡتُونِي بِهِۦ فَلَا كَيۡلَ لَكُمۡ عِندِي وَلَا تَقۡرَبُونِ
“Nếu các người không đưa nó đến gặp ta thì các người sẽ không nhận được bất kỳ lượng thóc nào từ ta và cũng sẽ không được đến gần ta.”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ سَنُرَٰوِدُ عَنۡهُ أَبَاهُ وَإِنَّا لَفَٰعِلُونَ
(Các anh của Yusuf) nói: “Chúng tôi sẽ cố gắng khuyên cha của nó (không giữ nó lại) và chúng tôi thực sự sẽ làm (điều đó).”
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ لِفِتۡيَٰنِهِ ٱجۡعَلُواْ بِضَٰعَتَهُمۡ فِي رِحَالِهِمۡ لَعَلَّهُمۡ يَعۡرِفُونَهَآ إِذَا ٱنقَلَبُوٓاْ إِلَىٰٓ أَهۡلِهِمۡ لَعَلَّهُمۡ يَرۡجِعُونَ
(Yusuf) nói với những người hầu của mình: “Các ngươi hãy bỏ hàng hóa (mà họ đã trao đổi) vào túi yên của họ. Có lẽ họ sẽ nhận ra nó (được trả lại cho họ) khi họ trở về với gia đình, hy vọng họ sẽ quay lại.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا رَجَعُوٓاْ إِلَىٰٓ أَبِيهِمۡ قَالُواْ يَٰٓأَبَانَا مُنِعَ مِنَّا ٱلۡكَيۡلُ فَأَرۡسِلۡ مَعَنَآ أَخَانَا نَكۡتَلۡ وَإِنَّا لَهُۥ لَحَٰفِظُونَ
Sau khi trở về, (các anh của Yusuf) nói với cha của mình: “Thưa cha của chúng con, họ không cân thóc cho chúng con (trừ phi chúng con đưa em của chúng con theo cùng). Vì vậy, xin cha hãy để em đi cùng chúng con, có như vậy, chúng con mới nhận số thóc theo qui định. Chúng con chắc chắn sẽ bảo vệ em cẩn thận.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ هَلۡ ءَامَنُكُمۡ عَلَيۡهِ إِلَّا كَمَآ أَمِنتُكُمۡ عَلَىٰٓ أَخِيهِ مِن قَبۡلُ فَٱللَّهُ خَيۡرٌ حَٰفِظٗاۖ وَهُوَ أَرۡحَمُ ٱلرَّٰحِمِينَ
(Ya’qub) nói: “Chẳng lẽ ta lại tin các con giống như ta đã từng tin các con về đứa em (Yusuf) của các con trước đây ư?! (Ta sẽ không giao em cho các con lần nữa) bởi chỉ có Allah mới là Đấng Bảo Vệ tốt nhất và Ngài là Đấng Nhân Từ nhất.”
Les exégèses en arabe:
وَلَمَّا فَتَحُواْ مَتَٰعَهُمۡ وَجَدُواْ بِضَٰعَتَهُمۡ رُدَّتۡ إِلَيۡهِمۡۖ قَالُواْ يَٰٓأَبَانَا مَا نَبۡغِيۖ هَٰذِهِۦ بِضَٰعَتُنَا رُدَّتۡ إِلَيۡنَاۖ وَنَمِيرُ أَهۡلَنَا وَنَحۡفَظُ أَخَانَا وَنَزۡدَادُ كَيۡلَ بَعِيرٖۖ ذَٰلِكَ كَيۡلٞ يَسِيرٞ
Và khi họ mở hành lý ra thì thấy hàng hóa (đổi thóc) của họ được trả lại cho họ. Họ nói với cha của mình: “Cha ơi, chúng ta còn mong gì nữa? (Cha hãy nhìn xem), ngay cả hàng hóa (đổi thóc) của chúng con cũng đã được trả lại cho chúng con. (Vì vậy), chúng con cần đi ngay bây giờ để mang thóc về cho gia đình. Chúng con sẽ bảo vệ em cẩn thận và chúng con sẽ dẫn thêm một con lạc đà khác nữa để việc vận chuyển thóc được dễ dàng.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ لَنۡ أُرۡسِلَهُۥ مَعَكُمۡ حَتَّىٰ تُؤۡتُونِ مَوۡثِقٗا مِّنَ ٱللَّهِ لَتَأۡتُنَّنِي بِهِۦٓ إِلَّآ أَن يُحَاطَ بِكُمۡۖ فَلَمَّآ ءَاتَوۡهُ مَوۡثِقَهُمۡ قَالَ ٱللَّهُ عَلَىٰ مَا نَقُولُ وَكِيلٞ
(Ya’qub) nói: “Ta sẽ không để em đi cùng các con cho đến khi nào các con cho ta một lời thề long trọng nhân danh Allah rằng các con sẽ đưa em trở về bình an, trừ (trường hợp) các con bị bao vây (trước những gì mà Allah đã an bài).” Rồi sau khi chúng đã thề, (Ya’qub) nói: “Allah chứng giám những gì chúng ta đã nói.”
Les exégèses en arabe:
وَقَالَ يَٰبَنِيَّ لَا تَدۡخُلُواْ مِنۢ بَابٖ وَٰحِدٖ وَٱدۡخُلُواْ مِنۡ أَبۡوَٰبٖ مُّتَفَرِّقَةٖۖ وَمَآ أُغۡنِي عَنكُم مِّنَ ٱللَّهِ مِن شَيۡءٍۖ إِنِ ٱلۡحُكۡمُ إِلَّا لِلَّهِۖ عَلَيۡهِ تَوَكَّلۡتُۖ وَعَلَيۡهِ فَلۡيَتَوَكَّلِ ٱلۡمُتَوَكِّلُونَ
(Ya’qub) căn dặn: “Này các con, các con đừng vào thành chung một cổng mà hãy vào thành từ nhiều cổng khác nhau. Cha không thể giúp gì được cho các con chống lại (lệnh) của Allah (khi Ngài đã an bài cho các con). Quả thật, quyền định đoạt thuộc về một mình Allah. Cha xin phó thác cho Ngài. Và những ai phó thác cho Ngài hãy phó thác cho Ngài!”
Les exégèses en arabe:
وَلَمَّا دَخَلُواْ مِنۡ حَيۡثُ أَمَرَهُمۡ أَبُوهُم مَّا كَانَ يُغۡنِي عَنۡهُم مِّنَ ٱللَّهِ مِن شَيۡءٍ إِلَّا حَاجَةٗ فِي نَفۡسِ يَعۡقُوبَ قَضَىٰهَاۚ وَإِنَّهُۥ لَذُو عِلۡمٖ لِّمَا عَلَّمۡنَٰهُ وَلَٰكِنَّ أَكۡثَرَ ٱلنَّاسِ لَا يَعۡلَمُونَ
Rồi họ vào thành đúng theo những gì cha của họ đã căn dặn, và lời dặn dò đó đã không giúp gì được cho họ trước (sự an bài của) Allah. Thật ra, (lời căn dặn) chỉ thể hiện một sự bất an trong lòng của Ya’qub mà Y muốn loại bỏ. Ya’qub thực sự là người có kiến thức về những gì TA (Allah) đã dạy Y, nhưng hầu hết nhân loại không biết.
Les exégèses en arabe:
وَلَمَّا دَخَلُواْ عَلَىٰ يُوسُفَ ءَاوَىٰٓ إِلَيۡهِ أَخَاهُۖ قَالَ إِنِّيٓ أَنَا۠ أَخُوكَ فَلَا تَبۡتَئِسۡ بِمَا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ
Khi họ vào trình diện, Yusuf tiếp riêng đứa em ruột của mình, nói: “Quả thật, Ta chính là anh ruột của em. Vì vậy, em chớ đừng buồn về những gì mà (các anh của chúng ta) đã làm trước đây.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا جَهَّزَهُم بِجَهَازِهِمۡ جَعَلَ ٱلسِّقَايَةَ فِي رَحۡلِ أَخِيهِ ثُمَّ أَذَّنَ مُؤَذِّنٌ أَيَّتُهَا ٱلۡعِيرُ إِنَّكُمۡ لَسَٰرِقُونَ
Sau khi đã chuẩn bị đủ lượng thóc (như đã hứa) cho họ, (Yusuf) bỏ dụng cụ lường thóc (bằng vàng) vào túi hành lý của đứa em ruột, rồi cho một người hô hoán: “Hỡi đoàn lữ khách, các người thực sự là những tên trộm.”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ وَأَقۡبَلُواْ عَلَيۡهِم مَّاذَا تَفۡقِدُونَ
(Các anh của Yusuf) quay lại, hỏi: “Quí ngài đã mất gì?”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ نَفۡقِدُ صُوَاعَ ٱلۡمَلِكِ وَلِمَن جَآءَ بِهِۦ حِمۡلُ بَعِيرٖ وَأَنَا۠ بِهِۦ زَعِيمٞ
(Những người hô hoán) nói: “Chúng tôi mất một cái lường thóc của nhà vua.” (Và người đứng đầu của họ nói thêm): “Ai mang nó trả lại thì sẽ được thưởng số thóc bằng sức chở của một con lạc đà, ta đảm bảo điều đó.”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ تَٱللَّهِ لَقَدۡ عَلِمۡتُم مَّا جِئۡنَا لِنُفۡسِدَ فِي ٱلۡأَرۡضِ وَمَا كُنَّا سَٰرِقِينَ
(Các anh của Yusuf) nói: “Thề bởi Allah, quả thật, các ngài đều biết rằng chúng tôi không đến để hành động đồi bại ở vùng đất này, và chúng tôi không phải là những kẻ trộm.”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ فَمَا جَزَٰٓؤُهُۥٓ إِن كُنتُمۡ كَٰذِبِينَ
(Những người hô hoán) nói: “Vậy hình phạt sẽ là gì nếu các ngươi là những kẻ nói dối?”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ جَزَٰٓؤُهُۥ مَن وُجِدَ فِي رَحۡلِهِۦ فَهُوَ جَزَٰٓؤُهُۥۚ كَذَٰلِكَ نَجۡزِي ٱلظَّٰلِمِينَ
(Các anh của Yusuf) nói: “Hình phạt dành cho kẻ mà (vật bị mất trộm) được tìm thấy trong hành lý của y là bỏ tù y. Đó là hình phạt mà chúng tôi dùng để trừng phạt đối với những kẻ làm điều sai trái.”
Les exégèses en arabe:
فَبَدَأَ بِأَوۡعِيَتِهِمۡ قَبۡلَ وِعَآءِ أَخِيهِ ثُمَّ ٱسۡتَخۡرَجَهَا مِن وِعَآءِ أَخِيهِۚ كَذَٰلِكَ كِدۡنَا لِيُوسُفَۖ مَا كَانَ لِيَأۡخُذَ أَخَاهُ فِي دِينِ ٱلۡمَلِكِ إِلَّآ أَن يَشَآءَ ٱللَّهُۚ نَرۡفَعُ دَرَجَٰتٖ مَّن نَّشَآءُۗ وَفَوۡقَ كُلِّ ذِي عِلۡمٍ عَلِيمٞ
Vậy là (Yusuf) bắt đầu lục xét túi của họ trước khi lục xét chiếc túi của đứa em ruột. Rồi Y lấy nó (cái lường thóc) ra từ chiếc túi của đứa em. TA đã lập kế hoạch cho Yusuf (để Y giữ lại đứa em) đúng như thế, bởi vì Y không thể giữ lại nó theo luật của nhà vua (Ai Cập: hình phạt cho tội trộm cắp là bị đánh và phạt tiền) ngoại trừ Allah muốn khác đi. TA muốn nâng cao địa vị cho ai là tùy ý TA, và (TA là) Đấng Hiểu Biết vượt bên trên tất cả những ai được ban cho kiến thức.
Les exégèses en arabe:
۞ قَالُوٓاْ إِن يَسۡرِقۡ فَقَدۡ سَرَقَ أَخٞ لَّهُۥ مِن قَبۡلُۚ فَأَسَرَّهَا يُوسُفُ فِي نَفۡسِهِۦ وَلَمۡ يُبۡدِهَا لَهُمۡۚ قَالَ أَنتُمۡ شَرّٞ مَّكَانٗاۖ وَٱللَّهُ أَعۡلَمُ بِمَا تَصِفُونَ
(Các anh của Yusuf) nói: “Nếu nó trộm thì (chẳng có gì phải ngạc nhiên), bởi vì quả thật anh của nó trước đây cũng đã trộm (như vậy).” Yusuf giữ nguyên phản ứng của mình và không tiết lộ sự thật cho họ, Y chỉ nói với chính mình: “Các người còn xấu xa hơn thế, và Allah biết rõ nhất (sự thật) về những điều mà các người cáo buộc.”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ يَٰٓأَيُّهَا ٱلۡعَزِيزُ إِنَّ لَهُۥٓ أَبٗا شَيۡخٗا كَبِيرٗا فَخُذۡ أَحَدَنَا مَكَانَهُۥٓۖ إِنَّا نَرَىٰكَ مِنَ ٱلۡمُحۡسِنِينَ
(Các anh của Yusuf) nói: “Bẩm đại quan, thú thật nó còn có người cha già (đang mong ngóng). Vì vậy, xin đại quan hãy bắt giữ một người trong chúng tôi thay thế nó. Quả thật, chúng tôi thấy đại quan là một người đức hạnh, tốt bụng.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ مَعَاذَ ٱللَّهِ أَن نَّأۡخُذَ إِلَّا مَن وَجَدۡنَا مَتَٰعَنَا عِندَهُۥٓ إِنَّآ إِذٗا لَّظَٰلِمُونَ
(Yusuf) nói: “Cầu xin Allah che chở khỏi (việc bắt oan người). Chúng tôi chỉ bắt giữ người mà chúng tôi tìm thấy đồ của chúng tôi ở nơi y, nếu không chúng tôi thực sự là những kẻ làm điều sai quấy.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا ٱسۡتَيۡـَٔسُواْ مِنۡهُ خَلَصُواْ نَجِيّٗاۖ قَالَ كَبِيرُهُمۡ أَلَمۡ تَعۡلَمُوٓاْ أَنَّ أَبَاكُمۡ قَدۡ أَخَذَ عَلَيۡكُم مَّوۡثِقٗا مِّنَ ٱللَّهِ وَمِن قَبۡلُ مَا فَرَّطتُمۡ فِي يُوسُفَۖ فَلَنۡ أَبۡرَحَ ٱلۡأَرۡضَ حَتَّىٰ يَأۡذَنَ لِيٓ أَبِيٓ أَوۡ يَحۡكُمَ ٱللَّهُ لِيۖ وَهُوَ خَيۡرُ ٱلۡحَٰكِمِينَ
Sau khi hết hi vọng với (Yusuf), họ đến một góc và bàn riêng với nhau. Người anh cả nói: “Chắc các em vẫn còn nhớ cha của các em đã nhận lấy lời thề của các em trước Allah (rằng phải đưa em trở về bình an), và hơn nữa trước đây các em đã không làm tròn trách nhiệm với Yusuf? Vì vậy, anh sẽ không rời khỏi vùng đất (Ai Cập) này cho đến khi cha cho phép anh về hoặc Allah sẽ phân xử chuyện này giúp anh (có thể mang nó về), bởi Ngài là Đấng phân xử ưu việt.”
Les exégèses en arabe:
ٱرۡجِعُوٓاْ إِلَىٰٓ أَبِيكُمۡ فَقُولُواْ يَٰٓأَبَانَآ إِنَّ ٱبۡنَكَ سَرَقَ وَمَا شَهِدۡنَآ إِلَّا بِمَا عَلِمۡنَا وَمَا كُنَّا لِلۡغَيۡبِ حَٰفِظِينَ
“Các em hãy trở về gặp cha và nói: “Thưa cha của chúng con, con trai của cha thực sự đã phạm tội trộm cắp (và đã bị bắt giữ lại). Chúng con không khẳng định như thế cho đến khi chúng con đã biết rõ (việc nó bị bắt quả tang) và chúng con không có khả năng giám sát những điều vô hình.”
Les exégèses en arabe:
وَسۡـَٔلِ ٱلۡقَرۡيَةَ ٱلَّتِي كُنَّا فِيهَا وَٱلۡعِيرَ ٱلَّتِيٓ أَقۡبَلۡنَا فِيهَاۖ وَإِنَّا لَصَٰدِقُونَ
“(Để xác minh sự thật), cha có thể hỏi người dân nơi chúng con đã tá túc, cha cũng có thể hỏi đoàn lữ hành cùng trở về với chúng con. Chúng con hoàn toàn trung thực.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ بَلۡ سَوَّلَتۡ لَكُمۡ أَنفُسُكُمۡ أَمۡرٗاۖ فَصَبۡرٞ جَمِيلٌۖ عَسَى ٱللَّهُ أَن يَأۡتِيَنِي بِهِمۡ جَمِيعًاۚ إِنَّهُۥ هُوَ ٱلۡعَلِيمُ ٱلۡحَكِيمُ
(Ya’qub) nói: “Không đúng như vậy, linh hồn của các ngươi đã bày chuyện cho các ngươi. Giờ ta chỉ còn biết kiên nhẫn và chịu đựng, mong Allah sẽ mang tất cả chúng nó về cho ta, bởi Ngài là Đấng Hiểu Biết, Đấng Sáng Suốt.”
Les exégèses en arabe:
وَتَوَلَّىٰ عَنۡهُمۡ وَقَالَ يَٰٓأَسَفَىٰ عَلَىٰ يُوسُفَ وَٱبۡيَضَّتۡ عَيۡنَاهُ مِنَ ٱلۡحُزۡنِ فَهُوَ كَظِيمٞ
Rồi (Ya’qub) quay lưng về phía họ và nói: “Thật tội cho Yusuf!” Đôi mắt của Y đã biến thành màu trắng đục (do đã khóc quá nhiều) vì đau buồn, và Y đã cố kìm nén nỗi đau.
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ تَٱللَّهِ تَفۡتَؤُاْ تَذۡكُرُ يُوسُفَ حَتَّىٰ تَكُونَ حَرَضًا أَوۡ تَكُونَ مِنَ ٱلۡهَٰلِكِينَ
(Các con) khuyên (Ya’qub): “Xin thề với Allah, việc cha đau buồn vì nhớ nhung Yusuf thế này sẽ khiến cha ngã bệnh hoặc sẽ chết sớm.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ إِنَّمَآ أَشۡكُواْ بَثِّي وَحُزۡنِيٓ إِلَى ٱللَّهِ وَأَعۡلَمُ مِنَ ٱللَّهِ مَا لَا تَعۡلَمُونَ
(Ya’qub) nói: “Cha chỉ than thở về nỗi u sầu và buồn phiền của mình với Allah, và cha biết được ở nơi Allah những điều mà các con không biết.”
Les exégèses en arabe:
يَٰبَنِيَّ ٱذۡهَبُواْ فَتَحَسَّسُواْ مِن يُوسُفَ وَأَخِيهِ وَلَا تَاْيۡـَٔسُواْ مِن رَّوۡحِ ٱللَّهِۖ إِنَّهُۥ لَا يَاْيۡـَٔسُ مِن رَّوۡحِ ٱللَّهِ إِلَّا ٱلۡقَوۡمُ ٱلۡكَٰفِرُونَ
“Này các con của cha, hãy đi dò la tin tức của Yusuf và em trai của nó. Các con chớ đừng tuyệt vọng về lòng nhân từ của Allah, bởi lẽ, không ai tuyệt vọng về lòng nhân từ của Allah ngoại trừ đám người vô đức tin.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا دَخَلُواْ عَلَيۡهِ قَالُواْ يَٰٓأَيُّهَا ٱلۡعَزِيزُ مَسَّنَا وَأَهۡلَنَا ٱلضُّرُّ وَجِئۡنَا بِبِضَٰعَةٖ مُّزۡجَىٰةٖ فَأَوۡفِ لَنَا ٱلۡكَيۡلَ وَتَصَدَّقۡ عَلَيۡنَآۖ إِنَّ ٱللَّهَ يَجۡزِي ٱلۡمُتَصَدِّقِينَ
Khi (các anh của Yusuf) đi vào trình diện Y, họ nói: “Bẩm đại quan, gia đình của chúng tôi gặp phải khó khăn và thiếu thốn, chúng tôi chỉ mang theo một ít hàng hóa không mấy giá trị, mong được đại quan đong thóc cho và xin hãy bố thí thêm cho chúng tôi. Quả thật, Allah luôn ban thưởng cho người hành thiện.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ هَلۡ عَلِمۡتُم مَّا فَعَلۡتُم بِيُوسُفَ وَأَخِيهِ إِذۡ أَنتُمۡ جَٰهِلُونَ
(Yusuf) nói: “Các ngươi còn nhớ mình đã từng làm gì với Yusuf và người em của nó trong lúc các ngươi nông nổi không?”
Les exégèses en arabe:
قَالُوٓاْ أَءِنَّكَ لَأَنتَ يُوسُفُۖ قَالَ أَنَا۠ يُوسُفُ وَهَٰذَآ أَخِيۖ قَدۡ مَنَّ ٱللَّهُ عَلَيۡنَآۖ إِنَّهُۥ مَن يَتَّقِ وَيَصۡبِرۡ فَإِنَّ ٱللَّهَ لَا يُضِيعُ أَجۡرَ ٱلۡمُحۡسِنِينَ
(Tất cả ngạc nhiên) hỏi: “Lẽ nào đại quan đây chính là Yusuf?” (Yusuf) đáp: “Đúng, em đây là Yusuf và đây (Binyamin) em của em. Quả thật, Allah đã đối xử rất tốt với chúng em, bởi lẽ, đối với ai có lòng kính sợ và kiên nhẫn thì chắc chắn Allah không bao giờ làm mất công đức của những người làm tốt.”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ تَٱللَّهِ لَقَدۡ ءَاثَرَكَ ٱللَّهُ عَلَيۡنَا وَإِن كُنَّا لَخَٰطِـِٔينَ
(Các anh của Yusuf) nói: “Xin thề với Allah, chắc chắn em đã được Allah đối đãi tốt hơn các anh, quả thật, trước đây các anh là những người sai trái.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ لَا تَثۡرِيبَ عَلَيۡكُمُ ٱلۡيَوۡمَۖ يَغۡفِرُ ٱللَّهُ لَكُمۡۖ وَهُوَ أَرۡحَمُ ٱلرَّٰحِمِينَ
(Yusuf) nói: “Hôm nay, chẳng còn gì để trách móc các anh nữa, Allah sẽ tha thứ tội lỗi cho các anh, bởi Ngài là Đấng Khoan Dung nhất.”
Les exégèses en arabe:
ٱذۡهَبُواْ بِقَمِيصِي هَٰذَا فَأَلۡقُوهُ عَلَىٰ وَجۡهِ أَبِي يَأۡتِ بَصِيرٗا وَأۡتُونِي بِأَهۡلِكُمۡ أَجۡمَعِينَ
“Các anh hãy lấy chiếc áo này của em mang về ném vào mặt của cha, rồi mắt của cha sẽ nhìn thấy trở lại. Sau đó, các anh hãy đưa hết gia đình của các anh đến đây với em.”
Les exégèses en arabe:
وَلَمَّا فَصَلَتِ ٱلۡعِيرُ قَالَ أَبُوهُمۡ إِنِّي لَأَجِدُ رِيحَ يُوسُفَۖ لَوۡلَآ أَن تُفَنِّدُونِ
Khi đoàn lữ hành vừa rời (Ai Cập) thì (Ya’qub) cha của họ liền bảo: “Cha thực sự đã ngửi thấy mùi hương của Yusuf. Các con đừng bảo cha lú lẫn.”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ تَٱللَّهِ إِنَّكَ لَفِي ضَلَٰلِكَ ٱلۡقَدِيمِ
(Các con) nói với (Ya’qub): “Xin thề với Allah, chắc chắn cha vẫn bị chuyện trước đây ám ảnh.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّآ أَن جَآءَ ٱلۡبَشِيرُ أَلۡقَىٰهُ عَلَىٰ وَجۡهِهِۦ فَٱرۡتَدَّ بَصِيرٗاۖ قَالَ أَلَمۡ أَقُل لَّكُمۡ إِنِّيٓ أَعۡلَمُ مِنَ ٱللَّهِ مَا لَا تَعۡلَمُونَ
Khi mà người báo tin mừng đến rồi ném chiếc áo của (Yusuf) vào mặt của (Ya’qub), cặp mắt của Y liền nhìn thấy trở lại. (Lúc đó, Ya’qub) liền nói (với các con của mình): “Chẳng phải cha đã nói với các con rằng cha thực sự biết ở nơi Allah những gì các con không biết đó sao?”
Les exégèses en arabe:
قَالُواْ يَٰٓأَبَانَا ٱسۡتَغۡفِرۡ لَنَا ذُنُوبَنَآ إِنَّا كُنَّا خَٰطِـِٔينَ
(Các con của Ya’qub) nói: “Thưa Cha của chúng con, xin cha hãy cầu xin (Allah) tha thứ tội lỗi cho chúng con. Quả thật, chúng con là những kẻ sai trái.”
Les exégèses en arabe:
قَالَ سَوۡفَ أَسۡتَغۡفِرُ لَكُمۡ رَبِّيٓۖ إِنَّهُۥ هُوَ ٱلۡغَفُورُ ٱلرَّحِيمُ
(Ya’qub) nói: “Cha sẽ cầu xin Thượng Đế của cha tha thứ cho các con, bởi quả thật, Ngài là Đấng Tha Thứ, Đấng Nhân Từ.”
Les exégèses en arabe:
فَلَمَّا دَخَلُواْ عَلَىٰ يُوسُفَ ءَاوَىٰٓ إِلَيۡهِ أَبَوَيۡهِ وَقَالَ ٱدۡخُلُواْ مِصۡرَ إِن شَآءَ ٱللَّهُ ءَامِنِينَ
(Sau đó, Ya’qub và cả gia đình đến Ai Cập với Yusuf). Khi họ vào trình diện Yusuf, Y liền ôm chầm lấy cha mẹ của mình và nói với (các anh và gia đình của họ): “Hãy vào Ai Cập bình an, Insha Allah (nếu Allah muốn).”
Les exégèses en arabe:
وَرَفَعَ أَبَوَيۡهِ عَلَى ٱلۡعَرۡشِ وَخَرُّواْ لَهُۥ سُجَّدٗاۖ وَقَالَ يَٰٓأَبَتِ هَٰذَا تَأۡوِيلُ رُءۡيَٰيَ مِن قَبۡلُ قَدۡ جَعَلَهَا رَبِّي حَقّٗاۖ وَقَدۡ أَحۡسَنَ بِيٓ إِذۡ أَخۡرَجَنِي مِنَ ٱلسِّجۡنِ وَجَآءَ بِكُم مِّنَ ٱلۡبَدۡوِ مِنۢ بَعۡدِ أَن نَّزَغَ ٱلشَّيۡطَٰنُ بَيۡنِي وَبَيۡنَ إِخۡوَتِيٓۚ إِنَّ رَبِّي لَطِيفٞ لِّمَا يَشَآءُۚ إِنَّهُۥ هُوَ ٱلۡعَلِيمُ ٱلۡحَكِيمُ
Rồi (Yusuf) mời cha mẹ lên ngồi trên vương vị của mình và tất cả đồng quỳ xuống trước Y. (Yusuf) nói: “Thưa cha của con. Đây chính là ý nghĩa của giấc mộng mà con đã nhìn thấy trước đây, Thượng Đế của con đã biến nó thành hiện thực. Ngài đã đối xử tốt với con khi đưa con ra khỏi tù giam cũng như đưa cha và cả gia đình từ vùng quê (Palestine) đến (Ai Cập này) đoàn tụ với con, sau khi chúng con đã bị Shaytan gây ra (sự hận thù) giữa con và các anh. Quả thật, Thượng Đế của con rất tinh tế với mọi điều Ngài muốn, quả thật Ngài là Đấng Hằng Biết, Đấng Sáng Suốt.”
Les exégèses en arabe:
۞ رَبِّ قَدۡ ءَاتَيۡتَنِي مِنَ ٱلۡمُلۡكِ وَعَلَّمۡتَنِي مِن تَأۡوِيلِ ٱلۡأَحَادِيثِۚ فَاطِرَ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ أَنتَ وَلِيِّۦ فِي ٱلدُّنۡيَا وَٱلۡأٓخِرَةِۖ تَوَفَّنِي مُسۡلِمٗا وَأَلۡحِقۡنِي بِٱلصَّٰلِحِينَ
“Lạy Thượng Đế của bề tôi, quả thật, Ngài đã ban cho bề tôi vương quyền và đã dạy cho bề tôi cách giải mộng. Lạy Đấng đã tạo ra các tầng trời và trái đất, Đấng Bảo Hộ cho bề tôi ở trần gian này và cả ở Đời Sau, xin Ngài ban cho bề tôi được chết là một người Muslim và xin Ngài thu nhận bề tôi vào cùng với nhóm người đức hạnh của Ngài.”
Les exégèses en arabe:
ذَٰلِكَ مِنۡ أَنۢبَآءِ ٱلۡغَيۡبِ نُوحِيهِ إِلَيۡكَۖ وَمَا كُنتَ لَدَيۡهِمۡ إِذۡ أَجۡمَعُوٓاْ أَمۡرَهُمۡ وَهُمۡ يَمۡكُرُونَ
Đó (câu chuyện về Yusuf) là nguồn tin vô hình mà TA đã mặc khải cho Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad). Ngươi không có mặt lúc họ (các anh của Yusuf) tập trung lại bàn bạc kế hoạch (hãm hại Yusuf).
Les exégèses en arabe:
وَمَآ أَكۡثَرُ ٱلنَّاسِ وَلَوۡ حَرَصۡتَ بِمُؤۡمِنِينَ
Đa số nhân loại sẽ không có đức tin cho dù Ngươi đã cố gắng (tìm cách cho họ tin tưởng).
Les exégèses en arabe:
وَمَا تَسۡـَٔلُهُمۡ عَلَيۡهِ مِنۡ أَجۡرٍۚ إِنۡ هُوَ إِلَّا ذِكۡرٞ لِّلۡعَٰلَمِينَ
Ngươi không đòi hỏi họ tiền thù lao (cho việc truyền đạt Qur’an). Và (Qur’an) chỉ là lời nhắc nhở cho toàn nhân loại.
Les exégèses en arabe:
وَكَأَيِّن مِّنۡ ءَايَةٖ فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ يَمُرُّونَ عَلَيۡهَا وَهُمۡ عَنۡهَا مُعۡرِضُونَ
(Quả thật), có biết bao dấu hiệu trong các tầng trời và trái đất mà họ lướt qua trong khi họ quay đi.
Les exégèses en arabe:
وَمَا يُؤۡمِنُ أَكۡثَرُهُم بِٱللَّهِ إِلَّا وَهُم مُّشۡرِكُونَ
Đa số họ đã không có đức tin nơi Allah mà chỉ toàn là những kẻ đa thần.
Les exégèses en arabe:
أَفَأَمِنُوٓاْ أَن تَأۡتِيَهُمۡ غَٰشِيَةٞ مِّنۡ عَذَابِ ٱللَّهِ أَوۡ تَأۡتِيَهُمُ ٱلسَّاعَةُ بَغۡتَةٗ وَهُمۡ لَا يَشۡعُرُونَ
Lẽ nào họ lại cảm thấy an tâm khi hình phạt của Allah bao trùm lấy họ (ở cuộc sống trần gian này) hoặc giờ khắc tận thế bất ngờ xảy đến trong lúc họ hoàn toàn không hay biết?
Les exégèses en arabe:
قُلۡ هَٰذِهِۦ سَبِيلِيٓ أَدۡعُوٓاْ إِلَى ٱللَّهِۚ عَلَىٰ بَصِيرَةٍ أَنَا۠ وَمَنِ ٱتَّبَعَنِيۖ وَسُبۡحَٰنَ ٱللَّهِ وَمَآ أَنَا۠ مِنَ ٱلۡمُشۡرِكِينَ
Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói: “Đây là đường lối mà ta mời gọi mọi người đến với Allah dựa trên kiến thức rõ ràng và cũng là đường lối của những ai noi theo ta. Vinh quang và tối cao thay Allah, ta không phải là kẻ đa thần.”
Les exégèses en arabe:
وَمَآ أَرۡسَلۡنَا مِن قَبۡلِكَ إِلَّا رِجَالٗا نُّوحِيٓ إِلَيۡهِم مِّنۡ أَهۡلِ ٱلۡقُرَىٰٓۗ أَفَلَمۡ يَسِيرُواْ فِي ٱلۡأَرۡضِ فَيَنظُرُواْ كَيۡفَ كَانَ عَٰقِبَةُ ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِهِمۡۗ وَلَدَارُ ٱلۡأٓخِرَةِ خَيۡرٞ لِّلَّذِينَ ٱتَّقَوۡاْۚ أَفَلَا تَعۡقِلُونَ
Tất cả Thiên Sứ mà TA (Allah) đã cử phái trước Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) cũng đều là những người đàn ông (phàm tục giống như Ngươi) được TA mặc khải cho họ, họ cũng xuất thân từ dân chúng của các thị trấn. Sao (những kẻ phủ nhận sứ mạng của Ngươi) không chịu đi khắp nơi trên trái đất để xem những kẻ trước chúng đã phải chịu hậu quả thế nào? (Quả thật,) cuộc sống ở Đời Sau tốt đẹp hơn cho những ai có lòng kính sợ, lẽ nào các ngươi vẫn không hiểu ư?!
Les exégèses en arabe:
حَتَّىٰٓ إِذَا ٱسۡتَيۡـَٔسَ ٱلرُّسُلُ وَظَنُّوٓاْ أَنَّهُمۡ قَدۡ كُذِبُواْ جَآءَهُمۡ نَصۡرُنَا فَنُجِّيَ مَن نَّشَآءُۖ وَلَا يُرَدُّ بَأۡسُنَا عَنِ ٱلۡقَوۡمِ ٱلۡمُجۡرِمِينَ
(Lời cảnh báo trừng phạt của các Sứ Giả dành cho những kẻ chống đối đã được Allah tạm hoãn) đến nỗi các Sứ Giả cũng bị rơi vào tuyệt vọng, còn những kẻ chống đối luôn tưởng rằng các Sứ Giả chỉ nói dối, thì lúc đó sự giúp đỡ của TA đã đến với Họ. TA đã giải cứu (các Sứ Giả và) những ai TA muốn và (không thế lực nào) cản ngăn được lệnh trừng phạt của TA đối với đám người tội lỗi.
Les exégèses en arabe:
لَقَدۡ كَانَ فِي قَصَصِهِمۡ عِبۡرَةٞ لِّأُوْلِي ٱلۡأَلۡبَٰبِۗ مَا كَانَ حَدِيثٗا يُفۡتَرَىٰ وَلَٰكِن تَصۡدِيقَ ٱلَّذِي بَيۡنَ يَدَيۡهِ وَتَفۡصِيلَ كُلِّ شَيۡءٖ وَهُدٗى وَرَحۡمَةٗ لِّقَوۡمٖ يُؤۡمِنُونَ
Quả thật, trong các câu chuyện của (Yusuf và các Sứ Giả khác) là những bài học cho những người thông hiểu. (Qur’an) không phải là lời bịa đặt mà là một sự xác nhận lại những điều đã xảy ra trước Nó và là một sự trình bày chi tiết (về các giới luật và giáo điều), là một chỉ đạo và hồng ân cho những người có đức tin.
Les exégèses en arabe:
 
Traduction des sens Sourate: YOUSOUF
Lexique des sourates Numéro de la page
 
Traduction des sens du Noble Coran - Traduction vietnamienne - Centre Rawwâd de traduction - Lexique des traductions

Traduction des sens du noble Coran en langue vietnamienne, par le Centre Rawwâd de traduction, en collaboration avec IslamHouse.com.

Fermeture