क़ुरआन के अर्थों का अनुवाद - वियतनामी अनुवाद - मरकज़ रुव्वाद अत-तरजमा * - अनुवादों की सूची

XML CSV Excel API
Please review the Terms and Policies

अर्थों का अनुवाद सूरा: सूरा अल्-कह्फ़   आयत:

Chương Al-Kahf

ٱلۡحَمۡدُ لِلَّهِ ٱلَّذِيٓ أَنزَلَ عَلَىٰ عَبۡدِهِ ٱلۡكِتَٰبَ وَلَمۡ يَجۡعَل لَّهُۥ عِوَجَاۜ
Alhamdulillah, Đấng đã ban xuống Kinh Sách cho người bề tôi của Ngài và không làm cho Nó quanh co.
अरबी तफ़सीरें:
قَيِّمٗا لِّيُنذِرَ بَأۡسٗا شَدِيدٗا مِّن لَّدُنۡهُ وَيُبَشِّرَ ٱلۡمُؤۡمِنِينَ ٱلَّذِينَ يَعۡمَلُونَ ٱلصَّٰلِحَٰتِ أَنَّ لَهُمۡ أَجۡرًا حَسَنٗا
(Một quyển Kinh) ngay thẳng, rõ ràng, dùng để cảnh báo về sự trừng phạt nghiêm khắc và để báo tin mừng đến những người có đức tin, những người làm việc thiện tốt rằng họ sẽ được ban cho phần thưởng tốt đẹp (Thiên Đàng).
अरबी तफ़सीरें:
مَّٰكِثِينَ فِيهِ أَبَدٗا
Họ sẽ ở trong đó mãi mãi.
अरबी तफ़सीरें:
وَيُنذِرَ ٱلَّذِينَ قَالُواْ ٱتَّخَذَ ٱللَّهُ وَلَدٗا
Và để cảnh báo những kẻ đã nói Allah có một đứa con trai.
अरबी तफ़सीरें:
مَّا لَهُم بِهِۦ مِنۡ عِلۡمٖ وَلَا لِأٓبَآئِهِمۡۚ كَبُرَتۡ كَلِمَةٗ تَخۡرُجُ مِنۡ أَفۡوَٰهِهِمۡۚ إِن يَقُولُونَ إِلَّا كَذِبٗا
Họ và cha mẹ của họ không hề có một chút kiến thức nào về điều đó cả. Thật nghiêm trọng thay cho lời nói từ cửa miệng của họ. Họ thực sự chỉ nói điều giả dối.
अरबी तफ़सीरें:
فَلَعَلَّكَ بَٰخِعٞ نَّفۡسَكَ عَلَىٰٓ ءَاثَٰرِهِمۡ إِن لَّمۡ يُؤۡمِنُواْ بِهَٰذَا ٱلۡحَدِيثِ أَسَفًا
Có lẽ Ngươi (Muhammad) khổ tâm, đau buồn khiến bản thân chết dần chết mòn trên lối mòn của họ nếu họ không có đức tin vào Lời Nói này (Qur’an).
अरबी तफ़सीरें:
إِنَّا جَعَلۡنَا مَا عَلَى ٱلۡأَرۡضِ زِينَةٗ لَّهَا لِنَبۡلُوَهُمۡ أَيُّهُمۡ أَحۡسَنُ عَمَلٗا
Quả thật, TA (Allah) đã tạo ra những gì trên trái đất là để tô điểm, trang hoàng mục đích thử thách họ xem ai trong số họ là người làm tốt nhất.
अरबी तफ़सीरें:
وَإِنَّا لَجَٰعِلُونَ مَا عَلَيۡهَا صَعِيدٗا جُرُزًا
Và (rồi đây) TA chắc chắn sẽ làm cho nó thành đồi trọc, chẳng còn gì.
अरबी तफ़सीरें:
أَمۡ حَسِبۡتَ أَنَّ أَصۡحَٰبَ ٱلۡكَهۡفِ وَٱلرَّقِيمِ كَانُواْ مِنۡ ءَايَٰتِنَا عَجَبًا
Hoặc có phải Ngươi (Muhammad) đã nghĩ rằng những người bạn của hang núi và bia ký là một trong các dấu hiệu lạ của TA?!
अरबी तफ़सीरें:
إِذۡ أَوَى ٱلۡفِتۡيَةُ إِلَى ٱلۡكَهۡفِ فَقَالُواْ رَبَّنَآ ءَاتِنَا مِن لَّدُنكَ رَحۡمَةٗ وَهَيِّئۡ لَنَا مِنۡ أَمۡرِنَا رَشَدٗا
(Ngươi hãy nhớ lại) khi nhóm thanh niên ẩn náu trong hang núi, họ cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bầy tôi, xin Ngài hãy thương xót bầy tôi và xin Ngài hãy sắp xếp vụ việc của bầy tôi theo hướng tốt đẹp.”
अरबी तफ़सीरें:
فَضَرَبۡنَا عَلَىٰٓ ءَاذَانِهِمۡ فِي ٱلۡكَهۡفِ سِنِينَ عَدَدٗا
Thế là TA (Allah) đã bịt tai họ lại trong hang núi nhiều năm dài (để họ không nghe thấy gì và ngủ say).
अरबी तफ़सीरें:
ثُمَّ بَعَثۡنَٰهُمۡ لِنَعۡلَمَ أَيُّ ٱلۡحِزۡبَيۡنِ أَحۡصَىٰ لِمَا لَبِثُوٓاْ أَمَدٗا
Sau đó, TA đánh thức họ dậy để xem ai trong hai nhóm của họ tính toán chính xác nhất về thời gian mà họ đã ở lại (trong hang núi).
अरबी तफ़सीरें:
نَّحۡنُ نَقُصُّ عَلَيۡكَ نَبَأَهُم بِٱلۡحَقِّۚ إِنَّهُمۡ فِتۡيَةٌ ءَامَنُواْ بِرَبِّهِمۡ وَزِدۡنَٰهُمۡ هُدٗى
TA kể cho Ngươi (Muhammad) nghe thông tin của họ bằng sự thật. Quả thật, họ là một nhóm thanh niên có đức tin nơi Thượng Đế của họ và TA đã ban thêm cho họ sự hướng dẫn.
अरबी तफ़सीरें:
وَرَبَطۡنَا عَلَىٰ قُلُوبِهِمۡ إِذۡ قَامُواْ فَقَالُواْ رَبُّنَا رَبُّ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ لَن نَّدۡعُوَاْ مِن دُونِهِۦٓ إِلَٰهٗاۖ لَّقَدۡ قُلۡنَآ إِذٗا شَطَطًا
Và TA đã giữ vững trái tim của họ (trong đức tin) khi họ đứng cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bầy tôi, Thượng Đế của các tầng trời và trái đất, bầy tôi sẽ không bao giờ khấn vái cầu xin bất cứ thần linh nào khác ngoài Ngài. (Nếu như bầy tôi làm như thế) thì quả thật bầy tôi đã quá sai quấy.”
अरबी तफ़सीरें:
هَٰٓؤُلَآءِ قَوۡمُنَا ٱتَّخَذُواْ مِن دُونِهِۦٓ ءَالِهَةٗۖ لَّوۡلَا يَأۡتُونَ عَلَيۡهِم بِسُلۡطَٰنِۭ بَيِّنٖۖ فَمَنۡ أَظۡلَمُ مِمَّنِ ٱفۡتَرَىٰ عَلَى ٱللَّهِ كَذِبٗا
“Đám dân của bầy tôi, những người này, đã tôn thờ những thần linh khác ngoài Ngài nhưng họ không có bằng chứng rõ ràng nào (cho việc làm đó của họ). Bởi vậy còn ai sai quấy hơn những kẻ đã bịa đặt điều dối trá cho Allah?!”
अरबी तफ़सीरें:
وَإِذِ ٱعۡتَزَلۡتُمُوهُمۡ وَمَا يَعۡبُدُونَ إِلَّا ٱللَّهَ فَأۡوُۥٓاْ إِلَى ٱلۡكَهۡفِ يَنشُرۡ لَكُمۡ رَبُّكُم مِّن رَّحۡمَتِهِۦ وَيُهَيِّئۡ لَكُم مِّنۡ أَمۡرِكُم مِّرۡفَقٗا
(Nhóm thanh niên bảo nhau): “Và khi các anh rời bỏ họ và những thần linh mà họ thờ phượng ngoài Allah thì các anh hãy chạy đến hang núi mà ẩn náu rồi Thượng Đế của các anh sẽ thương xót các anh và sắp xếp vụ việc của các anh theo hướng dễ dàng và tốt đẹp.”
अरबी तफ़सीरें:
۞ وَتَرَى ٱلشَّمۡسَ إِذَا طَلَعَت تَّزَٰوَرُ عَن كَهۡفِهِمۡ ذَاتَ ٱلۡيَمِينِ وَإِذَا غَرَبَت تَّقۡرِضُهُمۡ ذَاتَ ٱلشِّمَالِ وَهُمۡ فِي فَجۡوَةٖ مِّنۡهُۚ ذَٰلِكَ مِنۡ ءَايَٰتِ ٱللَّهِۗ مَن يَهۡدِ ٱللَّهُ فَهُوَ ٱلۡمُهۡتَدِۖ وَمَن يُضۡلِلۡ فَلَن تَجِدَ لَهُۥ وَلِيّٗا مُّرۡشِدٗا
Và Ngươi (Muhammad) thấy mặt trời khi nó mọc thì nó mọc lệch về phía bên phải cái hang của họ rồi khi nó lặn thì nó đi ngang qua họ về phía bên trái trong lúc họ nằm ngủ tại khoảng trống giữa hang. Đó là một trong những dấu lạ của Allah. Người nào được Allah hướng dẫn thì y sẽ tìm thấy nguồn chỉ đạo còn người nào bị Ngài làm cho lầm lạc thì sẽ không bao giờ tìm thấy vị bảo hộ hướng dẫn đúng đường.
अरबी तफ़सीरें:
وَتَحۡسَبُهُمۡ أَيۡقَاظٗا وَهُمۡ رُقُودٞۚ وَنُقَلِّبُهُمۡ ذَاتَ ٱلۡيَمِينِ وَذَاتَ ٱلشِّمَالِۖ وَكَلۡبُهُم بَٰسِطٞ ذِرَاعَيۡهِ بِٱلۡوَصِيدِۚ لَوِ ٱطَّلَعۡتَ عَلَيۡهِمۡ لَوَلَّيۡتَ مِنۡهُمۡ فِرَارٗا وَلَمُلِئۡتَ مِنۡهُمۡ رُعۡبٗا
(Khi nhìn thấy họ) Ngươi cứ ngỡ họ đang thức nhưng kỳ thật họ đang ngủ. Và TA lật trở họ sang bên phải rồi sang bên trái, và con chó của họ thì (vẫn trong tư thế) duỗi hai chân trước ra trên bậc thềm (của cái hang như đang canh gác). Nếu Ngươi nhìn thấy cảnh tượng đó của họ thì chắc chắn Ngươi sẽ tháo chạy và sẽ rất kinh hãi trước hình ảnh của họ.
अरबी तफ़सीरें:
وَكَذَٰلِكَ بَعَثۡنَٰهُمۡ لِيَتَسَآءَلُواْ بَيۡنَهُمۡۚ قَالَ قَآئِلٞ مِّنۡهُمۡ كَمۡ لَبِثۡتُمۡۖ قَالُواْ لَبِثۡنَا يَوۡمًا أَوۡ بَعۡضَ يَوۡمٖۚ قَالُواْ رَبُّكُمۡ أَعۡلَمُ بِمَا لَبِثۡتُمۡ فَٱبۡعَثُوٓاْ أَحَدَكُم بِوَرِقِكُمۡ هَٰذِهِۦٓ إِلَى ٱلۡمَدِينَةِ فَلۡيَنظُرۡ أَيُّهَآ أَزۡكَىٰ طَعَامٗا فَلۡيَأۡتِكُم بِرِزۡقٖ مِّنۡهُ وَلۡيَتَلَطَّفۡ وَلَا يُشۡعِرَنَّ بِكُمۡ أَحَدًا
Và tương tự như thế, TA đã đánh thức họ dậy để họ hỏi nhau. Một người trong bọn họ nói: “Các anh đã ngủ được bao lâu rồi?” Họ bảo: “Có lẽ chúng ta đã ngủ được một ngày hay một buổi gì đó.” Rồi họ lại nói: “Thượng Đế của các anh biết rõ hơn hết rằng các anh đã ngủ được bao lâu; thôi, các anh hãy cử một người cầm số tiền này của các anh xuống phố tìm mua thức ăn mang về cho các anh và anh ta hãy nhớ chú ý cẩn thận chớ để ai đó phát giác.”
अरबी तफ़सीरें:
إِنَّهُمۡ إِن يَظۡهَرُواْ عَلَيۡكُمۡ يَرۡجُمُوكُمۡ أَوۡ يُعِيدُوكُمۡ فِي مِلَّتِهِمۡ وَلَن تُفۡلِحُوٓاْ إِذًا أَبَدٗا
“Quả thật, nếu họ phát hiện ra các anh, họ sẽ ném đá giết các anh, hoặc sẽ bắt các anh trở lại với tín ngưỡng của họ và nếu như thế thì các anh sẽ không bao giờ thành đạt.”
अरबी तफ़सीरें:
وَكَذَٰلِكَ أَعۡثَرۡنَا عَلَيۡهِمۡ لِيَعۡلَمُوٓاْ أَنَّ وَعۡدَ ٱللَّهِ حَقّٞ وَأَنَّ ٱلسَّاعَةَ لَا رَيۡبَ فِيهَآ إِذۡ يَتَنَٰزَعُونَ بَيۡنَهُمۡ أَمۡرَهُمۡۖ فَقَالُواْ ٱبۡنُواْ عَلَيۡهِم بُنۡيَٰنٗاۖ رَّبُّهُمۡ أَعۡلَمُ بِهِمۡۚ قَالَ ٱلَّذِينَ غَلَبُواْ عَلَىٰٓ أَمۡرِهِمۡ لَنَتَّخِذَنَّ عَلَيۡهِم مَّسۡجِدٗا
Và như thế (với cách đó) TA đã cho lộ tung tích của họ (nhóm thanh niên trong hang núi) để họ (thiên hạ) biết rằng lời hứa của Allah là sự thật và rằng giờ Tận Thế (cũng là sự thật) không có gì phải ngờ vực. (Ngươi hãy nhớ lại) lúc họ (người dân trong thành phố) tranh cãi nhau về vụ việc của họ (nhóm thanh niên trong hang núi). Một số bảo: “Các người hãy xây lên chỗ của họ một tượng đài, Thượng Đế của họ biết rõ về họ.” Những người chiếm ưu thế trong cuộc tranh cãi nói: “Chúng ta chắc chắn sẽ xây một Masjid bên trên chỗ của họ.”
अरबी तफ़सीरें:
سَيَقُولُونَ ثَلَٰثَةٞ رَّابِعُهُمۡ كَلۡبُهُمۡ وَيَقُولُونَ خَمۡسَةٞ سَادِسُهُمۡ كَلۡبُهُمۡ رَجۡمَۢا بِٱلۡغَيۡبِۖ وَيَقُولُونَ سَبۡعَةٞ وَثَامِنُهُمۡ كَلۡبُهُمۡۚ قُل رَّبِّيٓ أَعۡلَمُ بِعِدَّتِهِم مَّا يَعۡلَمُهُمۡ إِلَّا قَلِيلٞۗ فَلَا تُمَارِ فِيهِمۡ إِلَّا مِرَآءٗ ظَٰهِرٗا وَلَا تَسۡتَفۡتِ فِيهِم مِّنۡهُمۡ أَحَدٗا
(Một số người) sẽ nói: “(Nhóm thanh niên trong hang núi) gồm ba người, con chó của họ nữa là bốn.” Một số khác sẽ nói: “Họ gồm năm người, con chó của họ nữa là sáu.” Toàn là lời nói vô căn cứ! Và một số khác thì bảo: “Họ gồm bảy người, con chó của họ nữa là tám.” Ngươi (Muhammad) hãy nói: “Thượng Đế của ta biết rõ nhất về số lượng của họ, chỉ ít người biết về họ. Do đó, chớ tranh cãi về họ trừ phi thực sự biết rõ sự việc và cũng chớ hỏi một ai về chuyện của họ.”
अरबी तफ़सीरें:
وَلَا تَقُولَنَّ لِشَاْيۡءٍ إِنِّي فَاعِلٞ ذَٰلِكَ غَدًا
Và Ngươi (Muhammad) chớ nói về bất cứ điều gì: “Quả thật tôi sẽ làm điều đó vào ngày mai.”
अरबी तफ़सीरें:
إِلَّآ أَن يَشَآءَ ٱللَّهُۚ وَٱذۡكُر رَّبَّكَ إِذَا نَسِيتَ وَقُلۡ عَسَىٰٓ أَن يَهۡدِيَنِ رَبِّي لِأَقۡرَبَ مِنۡ هَٰذَا رَشَدٗا
Trừ phi (Ngươi kèm theo lời): “Insha-Allah – Nếu Allah muốn”. Và Ngươi hãy tụng niệm Thượng Đế của Ngươi lúc Ngươi đã quên và Ngươi hãy nói: “Có thể Thượng Đế của Ta sẽ hướng dẫn Ta đến gần với chân lý hơn điều này.”
अरबी तफ़सीरें:
وَلَبِثُواْ فِي كَهۡفِهِمۡ ثَلَٰثَ مِاْئَةٖ سِنِينَ وَٱزۡدَادُواْ تِسۡعٗا
Và họ (nhóm thanh niên ẩn náu trong hang núi) đã lưu lại trong cái hang của họ ba trăm lẻ chín năm.
अरबी तफ़सीरें:
قُلِ ٱللَّهُ أَعۡلَمُ بِمَا لَبِثُواْۖ لَهُۥ غَيۡبُ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِۖ أَبۡصِرۡ بِهِۦ وَأَسۡمِعۡۚ مَا لَهُم مِّن دُونِهِۦ مِن وَلِيّٖ وَلَا يُشۡرِكُ فِي حُكۡمِهِۦٓ أَحَدٗا
Ngươi (Muhammad) hãy nói: “Allah biết rõ nhất họ đã lưu lại bao lâu (trong cái hang đó), những điều vô hình của các tầng trời và trái đất đều nằm trong sự hiểu biết của Ngài, Ngài nhìn thấy và nghe tất cả. Họ không có Đấng Bảo Hộ nào khác ngoài Ngài và không có ai (vật gì) chia sẻ với Ngài trong luật lệ của Ngài.
अरबी तफ़सीरें:
وَٱتۡلُ مَآ أُوحِيَ إِلَيۡكَ مِن كِتَابِ رَبِّكَۖ لَا مُبَدِّلَ لِكَلِمَٰتِهِۦ وَلَن تَجِدَ مِن دُونِهِۦ مُلۡتَحَدٗا
Ngươi (Muhammad) hãy xướng đọc những gì được mặc khải cho Ngươi từ Kinh Sách nơi Thượng Đế của Ngươi. Không ai có thể thay đổi các lời phán của Ngài và Ngươi sẽ không bao giờ tìm thấy được chỗ nương tựa nào khác ngoài Ngài.
अरबी तफ़सीरें:
وَٱصۡبِرۡ نَفۡسَكَ مَعَ ٱلَّذِينَ يَدۡعُونَ رَبَّهُم بِٱلۡغَدَوٰةِ وَٱلۡعَشِيِّ يُرِيدُونَ وَجۡهَهُۥۖ وَلَا تَعۡدُ عَيۡنَاكَ عَنۡهُمۡ تُرِيدُ زِينَةَ ٱلۡحَيَوٰةِ ٱلدُّنۡيَاۖ وَلَا تُطِعۡ مَنۡ أَغۡفَلۡنَا قَلۡبَهُۥ عَن ذِكۡرِنَا وَٱتَّبَعَ هَوَىٰهُ وَكَانَ أَمۡرُهُۥ فُرُطٗا
Ngươi (Muhammad) hãy kiên nhẫn cùng với những người thường cầu nguyện Thượng Đế của họ sáng chiều với mong muốn làm đẹp lòng Ngài. Ngươi chớ đừng không ngó ngàng gì tới họ chỉ vì thèm muốn vẻ hào nhoáng của cuộc sống trần tục, và Ngươi cũng chớ đừng nghe theo kẻ mà TA (Allah) đã đóng chặt trái tim của y khỏi sự tưởng nhở đến TA và chỉ biết chạy theo dục vọng của bản thân và hành động của y thường quá mức giới hạn.
अरबी तफ़सीरें:
وَقُلِ ٱلۡحَقُّ مِن رَّبِّكُمۡۖ فَمَن شَآءَ فَلۡيُؤۡمِن وَمَن شَآءَ فَلۡيَكۡفُرۡۚ إِنَّآ أَعۡتَدۡنَا لِلظَّٰلِمِينَ نَارًا أَحَاطَ بِهِمۡ سُرَادِقُهَاۚ وَإِن يَسۡتَغِيثُواْ يُغَاثُواْ بِمَآءٖ كَٱلۡمُهۡلِ يَشۡوِي ٱلۡوُجُوهَۚ بِئۡسَ ٱلشَّرَابُ وَسَآءَتۡ مُرۡتَفَقًا
Ngươi (Muhammad) hãy nói: “Chân lý thực sự đến từ nơi Thượng Đế của các người. Bởi thế, ai muốn tin thì hãy tin còn ai muốn vô đức tin thì cứ phủ nhận.” Quả thật, TA (Allah) đã chuẩn bị cho những kẻ làm điều sai quấy Ngục Lửa có rào bao quanh nhốt họ lại. Nếu họ van xin (nước để làm dịu đi một chút cơn nóng) thì họ sẽ được ban cho một loại nước giống như dầu sôi, nó (sẽ được đổ lên người họ) lột hết da mặt của họ. Ôi, loại nước uống thật khủng khiếp và nơi trú ngụ thật tồi tệ!
अरबी तफ़सीरें:
إِنَّ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ إِنَّا لَا نُضِيعُ أَجۡرَ مَنۡ أَحۡسَنَ عَمَلًا
Riêng những người có đức tin và hành thiện, chắc chắn TA (Allah) sẽ không làm mất đi công lao của những ai làm tốt.
अरबी तफ़सीरें:
أُوْلَٰٓئِكَ لَهُمۡ جَنَّٰتُ عَدۡنٖ تَجۡرِي مِن تَحۡتِهِمُ ٱلۡأَنۡهَٰرُ يُحَلَّوۡنَ فِيهَا مِنۡ أَسَاوِرَ مِن ذَهَبٖ وَيَلۡبَسُونَ ثِيَابًا خُضۡرٗا مِّن سُندُسٖ وَإِسۡتَبۡرَقٖ مُّتَّكِـِٔينَ فِيهَا عَلَى ٱلۡأَرَآئِكِۚ نِعۡمَ ٱلثَّوَابُ وَحَسُنَتۡ مُرۡتَفَقٗا
Những người đó sẽ được ban cho các Ngôi Vườn Thiên Đàng vĩnh cửu, bên dưới có các dòng sông chảy, trong đó họ sẽ được cho đeo các vòng vàng và sẽ được cho mặc y phục màu xanh lục từ gấm lụa được thêu trổ tuyệt đẹp, trong đó họ sẽ được ngồi tựa mình trên những chiếc tràng kỷ. Ôi, một phần thưởng thật đầy ân huệ và một nơi trú ngụ vô cùng tốt đẹp!
अरबी तफ़सीरें:
۞ وَٱضۡرِبۡ لَهُم مَّثَلٗا رَّجُلَيۡنِ جَعَلۡنَا لِأَحَدِهِمَا جَنَّتَيۡنِ مِنۡ أَعۡنَٰبٖ وَحَفَفۡنَٰهُمَا بِنَخۡلٖ وَجَعَلۡنَا بَيۡنَهُمَا زَرۡعٗا
Và Ngươi (Muhammad) hãy đưa ra cho họ một hình ảnh thí dụ về hai người đàn ông. Một trong hai được TA ban cho hai ngôi vườn nho, cả hai ngôi vườn được TA bao quanh bằng các cây chà là và chính giữa hai ngôi vườn được TA đặt cho một miếng rẫy.
अरबी तफ़सीरें:
كِلۡتَا ٱلۡجَنَّتَيۡنِ ءَاتَتۡ أُكُلَهَا وَلَمۡ تَظۡلِم مِّنۡهُ شَيۡـٔٗاۚ وَفَجَّرۡنَا خِلَٰلَهُمَا نَهَرٗا
Cả hai ngôi vườn đều xum xuê trĩu quả, không có bất cứ một trái lép nào; và TA đã cho phún ra một dòng sông chính giữa hai ngôi vườn đó.
अरबी तफ़सीरें:
وَكَانَ لَهُۥ ثَمَرٞ فَقَالَ لِصَٰحِبِهِۦ وَهُوَ يُحَاوِرُهُۥٓ أَنَا۠ أَكۡثَرُ مِنكَ مَالٗا وَأَعَزُّ نَفَرٗا
Y (chủ của hai ngôi vườn) được mùa trái quả. Y tranh luận với người bạn của mình trong lúc trò chuyện, nói (một cách đầy kiêu ngạo): “Tôi nhiều hơn anh về tài sản và mạnh hơn anh vì được đông con cái.”
अरबी तफ़सीरें:
وَدَخَلَ جَنَّتَهُۥ وَهُوَ ظَالِمٞ لِّنَفۡسِهِۦ قَالَ مَآ أَظُنُّ أَن تَبِيدَ هَٰذِهِۦٓ أَبَدٗا
Y vào ngôi vườn của mình và tự làm bản thân mình sai quấy khi nói: “Tôi nghĩ rằng ngôi vườn này sẽ không thể nào tiêu tan được.”
अरबी तफ़सीरें:
وَمَآ أَظُنُّ ٱلسَّاعَةَ قَآئِمَةٗ وَلَئِن رُّدِدتُّ إِلَىٰ رَبِّي لَأَجِدَنَّ خَيۡرٗا مِّنۡهَا مُنقَلَبٗا
“Và tôi cũng nghĩ rằng giờ tận thế sẽ không xảy đến. Và nếu tôi thực sự được đưa trở về với Thượng Đế của mình thì chắc chắn tôi cũng sẽ tìm được điều tốt đẹp hơn ngôi vườn này.”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ لَهُۥ صَاحِبُهُۥ وَهُوَ يُحَاوِرُهُۥٓ أَكَفَرۡتَ بِٱلَّذِي خَلَقَكَ مِن تُرَابٖ ثُمَّ مِن نُّطۡفَةٖ ثُمَّ سَوَّىٰكَ رَجُلٗا
Người bạn của y tranh luận với y, nói: “Phải chăng anh đã không có đức tin nơi Đấng đã tạo hóa ra anh từ đất bụi rồi từ tinh dịch rồi sau đó Ngài đã làm cho anh thành một người đàn ông hoàn chỉnh?!”
अरबी तफ़सीरें:
لَّٰكِنَّا۠ هُوَ ٱللَّهُ رَبِّي وَلَآ أُشۡرِكُ بِرَبِّيٓ أَحَدٗا
“Riêng đối với tôi thì Ngài là Allah, là Thượng Đế của tôi, tôi sẽ không Shirk (gán ghép đối tác) với Thượng Đế của tôi bất kỳ ai.”
अरबी तफ़सीरें:
وَلَوۡلَآ إِذۡ دَخَلۡتَ جَنَّتَكَ قُلۡتَ مَا شَآءَ ٱللَّهُ لَا قُوَّةَ إِلَّا بِٱللَّهِۚ إِن تَرَنِ أَنَا۠ أَقَلَّ مِنكَ مَالٗا وَوَلَدٗا
“Phải chi khi bước vào ngôi vườn của mình, anh nói: ‘Masha-Allah! – Đây là những gì Allah muốn! Không có sức mạnh nào ngoài Allah (thì có lẽ sẽ tốt cho anh). Nếu anh thấy tôi ít hơn anh về tài sản và con cái,”
अरबी तफ़सीरें:
فَعَسَىٰ رَبِّيٓ أَن يُؤۡتِيَنِ خَيۡرٗا مِّن جَنَّتِكَ وَيُرۡسِلَ عَلَيۡهَا حُسۡبَانٗا مِّنَ ٱلسَّمَآءِ فَتُصۡبِحَ صَعِيدٗا زَلَقًا
“Thì biết đâu (sau này) Thượng Đế của tôi sẽ ban cho tôi thứ tốt đẹp hơn ngôi vườn của anh; biết đâu Ngài sẽ gửi từ trên trời xuống những lưỡi tầm sét tàn phá ngôi vườn của anh, biến nó thành mảnh đất trơ trụi,”
अरबी तफ़सीरें:
أَوۡ يُصۡبِحَ مَآؤُهَا غَوۡرٗا فَلَن تَسۡتَطِيعَ لَهُۥ طَلَبٗا
“Hoặc nguồn nước của ngôi vườn sẽ cạn mất khiến anh không thể nào tìm được nguồn nước trở lại.”
अरबी तफ़सीरें:
وَأُحِيطَ بِثَمَرِهِۦ فَأَصۡبَحَ يُقَلِّبُ كَفَّيۡهِ عَلَىٰ مَآ أَنفَقَ فِيهَا وَهِيَ خَاوِيَةٌ عَلَىٰ عُرُوشِهَا وَيَقُولُ يَٰلَيۡتَنِي لَمۡ أُشۡرِكۡ بِرَبِّيٓ أَحَدٗا
Thế rồi mùa màng trái quả của y bị tàn phá toàn bộ, lúc đó, y xoa hai lòng bàn tay (tỏ vẻ tiếc nuối và xót) cho những gì đã chi tiêu vào ngôi vườn (từ công sức và tiền bạc); và (trước cảnh) toàn bộ những giàn nho ngã rạp nằm ngổn ngang, y (hối hận) nói: “Ôi, phải chi mình đã không Shirk với Thượng Đế của mình!”
अरबी तफ़सीरें:
وَلَمۡ تَكُن لَّهُۥ فِئَةٞ يَنصُرُونَهُۥ مِن دُونِ ٱللَّهِ وَمَا كَانَ مُنتَصِرًا
Và ngoài Allah, y không có một phái đảng nào giúp đỡ y và y cũng không tự cứu lấy được mình.
अरबी तफ़सीरें:
هُنَالِكَ ٱلۡوَلَٰيَةُ لِلَّهِ ٱلۡحَقِّۚ هُوَ خَيۡرٞ ثَوَابٗا وَخَيۡرٌ عُقۡبٗا
Ở kia (Ngày Phán Xét Cuối Cùng), quyền bảo hộ chỉ thuộc về một mình Allah, Đấng Chân Lý. Ngài là Đấng ban thưởng tốt nhất và cũng là Đấng ban cho kết quả cuối cùng tốt nhất.
अरबी तफ़सीरें:
وَٱضۡرِبۡ لَهُم مَّثَلَ ٱلۡحَيَوٰةِ ٱلدُّنۡيَا كَمَآءٍ أَنزَلۡنَٰهُ مِنَ ٱلسَّمَآءِ فَٱخۡتَلَطَ بِهِۦ نَبَاتُ ٱلۡأَرۡضِ فَأَصۡبَحَ هَشِيمٗا تَذۡرُوهُ ٱلرِّيَٰحُۗ وَكَانَ ٱللَّهُ عَلَىٰ كُلِّ شَيۡءٖ مُّقۡتَدِرًا
Và Ngươi (Muhammad) hãy đưa ra hình ảnh thí dụ về đời sống trần tục rằng nó giống như nước mưa mà TA (Allah) đã ban từ trên trời xuống làm cho cây cối, thảo mộc trên mặt đất mọc lên tươi tốt nhưng rồi sau đó nó dần dần trở thành những cọng rạ khô héo để những cơn gió thổi chúng bay đi khắp nơi. Và Allah là Đấng Định Đoạt tất cả mọi thứ.
अरबी तफ़सीरें:
ٱلۡمَالُ وَٱلۡبَنُونَ زِينَةُ ٱلۡحَيَوٰةِ ٱلدُّنۡيَاۖ وَٱلۡبَٰقِيَٰتُ ٱلصَّٰلِحَٰتُ خَيۡرٌ عِندَ رَبِّكَ ثَوَابٗا وَخَيۡرٌ أَمَلٗا
Của cải và con cái là những thứ trang hoàng của đời sống trần tục này (rồi sẽ sớm mất đi) và chỉ những việc làm ngoan đạo và thiện tốt mới còn mãi, chỉ có những việc làm ngoan đạo và thiện tốt mới được hưởng phần thưởng tốt đẹp nhất ở nơi Allah và mới là niềm hy vọng tốt đẹp nhất.
अरबी तफ़सीरें:
وَيَوۡمَ نُسَيِّرُ ٱلۡجِبَالَ وَتَرَى ٱلۡأَرۡضَ بَارِزَةٗ وَحَشَرۡنَٰهُمۡ فَلَمۡ نُغَادِرۡ مِنۡهُمۡ أَحَدٗا
Vào Ngày mà TA sẽ di chuyển các quả núi đi mất dạng và Ngươi (Muhammad) sẽ thấy mặt đất trống trải bằng phẳng, và TA sẽ triệu tập họ lại và không bỏ sót bất kỳ một ai.
अरबी तफ़सीरें:
وَعُرِضُواْ عَلَىٰ رَبِّكَ صَفّٗا لَّقَدۡ جِئۡتُمُونَا كَمَا خَلَقۡنَٰكُمۡ أَوَّلَ مَرَّةِۭۚ بَلۡ زَعَمۡتُمۡ أَلَّن نَّجۡعَلَ لَكُم مَّوۡعِدٗا
Họ sẽ được dẫn ra đứng thành hàng trình diện trước Thượng Đế của Ngươi. TA (Allah) chắc chắn sẽ mang các ngươi đến giống như TA đã tạo hóa các ngươi lần đầu. Tuy nhiên, các ngươi đã cho rằng TA không bao giờ thực hiện được lời hứa này với các ngươi.
अरबी तफ़सीरें:
وَوُضِعَ ٱلۡكِتَٰبُ فَتَرَى ٱلۡمُجۡرِمِينَ مُشۡفِقِينَ مِمَّا فِيهِ وَيَقُولُونَ يَٰوَيۡلَتَنَا مَالِ هَٰذَا ٱلۡكِتَٰبِ لَا يُغَادِرُ صَغِيرَةٗ وَلَا كَبِيرَةً إِلَّآ أَحۡصَىٰهَاۚ وَوَجَدُواْ مَا عَمِلُواْ حَاضِرٗاۗ وَلَا يَظۡلِمُ رَبُّكَ أَحَدٗا
Và quyển sổ (ghi chép các việc làm) sẽ được mang ra đặt trước mặt. Rồi Ngươi (Muhammad) sẽ thấy những kẻ tội lỗi hoảng sợ về những điều được ghi trong đó. Và họ sẽ than: “Ôi, thật khổ thân! Quyển sổ gì như thế này! Sao nó ghi không sót một điều gì dù nhỏ hay lớn vậy.” Và họ sẽ nhìn thấy trước mặt họ tất cả những điều mà mình đã làm. Và Thượng Đế của Ngươi sẽ không đối xử bất công đối với một ai.
अरबी तफ़सीरें:
وَإِذۡ قُلۡنَا لِلۡمَلَٰٓئِكَةِ ٱسۡجُدُواْ لِأٓدَمَ فَسَجَدُوٓاْ إِلَّآ إِبۡلِيسَ كَانَ مِنَ ٱلۡجِنِّ فَفَسَقَ عَنۡ أَمۡرِ رَبِّهِۦٓۗ أَفَتَتَّخِذُونَهُۥ وَذُرِّيَّتَهُۥٓ أَوۡلِيَآءَ مِن دُونِي وَهُمۡ لَكُمۡ عَدُوُّۢۚ بِئۡسَ لِلظَّٰلِمِينَ بَدَلٗا
Và khi TA phán với các Thiên Thần: “Các ngươi hãy cúi đầu quỳ lạy Adam” thì tất cả đều cúi xuống quỳ lạy ngoại trừ Iblis thuộc loài Jinn. Nó đã nghịch lại mệnh lệnh Thượng Đế của nó. Vậy phải chăng các ngươi chấp nhận nó và con cháu của nó làm kẻ bảo hộ của các ngươi thay vì TA trong lúc chúng là kẻ thù của các ngươi ư?! Thật xấu xa và tệ hại thay cho việc đổi chác của những kẻ làm điều sai quấy!
अरबी तफ़सीरें:
۞ مَّآ أَشۡهَدتُّهُمۡ خَلۡقَ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ وَلَا خَلۡقَ أَنفُسِهِمۡ وَمَا كُنتُ مُتَّخِذَ ٱلۡمُضِلِّينَ عَضُدٗا
TA đã không bắt chúng (Jinn) chứng kiến việc tạo hóa các tầng trời và trái đất và cũng không bắt chúng chứng kiến ngay cả việc tạo hóa ra bản thân chúng; và TA đã không lấy những kẻ dẫn thiên hạ đi lạc lối làm người ủng hộ.
अरबी तफ़सीरें:
وَيَوۡمَ يَقُولُ نَادُواْ شُرَكَآءِيَ ٱلَّذِينَ زَعَمۡتُمۡ فَدَعَوۡهُمۡ فَلَمۡ يَسۡتَجِيبُواْ لَهُمۡ وَجَعَلۡنَا بَيۡنَهُم مَّوۡبِقٗا
Vào Ngày mà Ngài sẽ bảo (những kẻ thờ các thần linh ngoài Allah): “Các ngươi hãy gọi các thần linh mà các ngươi đã khẳng định chúng là những vị đối tác của TA đến!” Họ đã gọi chúng nhưng chúng không trả lời. Thế là TA đặt bức màn phân cách giữa họ.
अरबी तफ़सीरें:
وَرَءَا ٱلۡمُجۡرِمُونَ ٱلنَّارَ فَظَنُّوٓاْ أَنَّهُم مُّوَاقِعُوهَا وَلَمۡ يَجِدُواْ عَنۡهَا مَصۡرِفٗا
Những kẻ tội lỗi nhìn thấy Hỏa Ngục thì họ biết chắc rằng mình sẽ phải sa vào đó và sẽ không thể nào tìm thấy một lối thoát để trốn khỏi nơi đó.
अरबी तफ़सीरें:
وَلَقَدۡ صَرَّفۡنَا فِي هَٰذَا ٱلۡقُرۡءَانِ لِلنَّاسِ مِن كُلِّ مَثَلٖۚ وَكَانَ ٱلۡإِنسَٰنُ أَكۡثَرَ شَيۡءٖ جَدَلٗا
Quả thật TA (Allah) đã trình bày cho nhân loại trong Qur’an này đủ các hình ảnh thí dụ, tuy nhiên, con người thường hay tranh cãi về rất nhiều vấn đề.
अरबी तफ़सीरें:
وَمَا مَنَعَ ٱلنَّاسَ أَن يُؤۡمِنُوٓاْ إِذۡ جَآءَهُمُ ٱلۡهُدَىٰ وَيَسۡتَغۡفِرُواْ رَبَّهُمۡ إِلَّآ أَن تَأۡتِيَهُمۡ سُنَّةُ ٱلۡأَوَّلِينَ أَوۡ يَأۡتِيَهُمُ ٱلۡعَذَابُ قُبُلٗا
Chẳng có gì ngăn cản (đa số) nhân loại tin tưởng và cầu xin Thượng Đế của họ tha thứ ngoại trừ (họ mong đợi một trong hai điều), hoặc là đường lối của những người đi trước (từ các hình phạt mà họ đã hứng chịu) sẽ xảy đến hoặc là sự trừng phạt giáng xuống trực diện họ.
अरबी तफ़सीरें:
وَمَا نُرۡسِلُ ٱلۡمُرۡسَلِينَ إِلَّا مُبَشِّرِينَ وَمُنذِرِينَۚ وَيُجَٰدِلُ ٱلَّذِينَ كَفَرُواْ بِٱلۡبَٰطِلِ لِيُدۡحِضُواْ بِهِ ٱلۡحَقَّۖ وَٱتَّخَذُوٓاْ ءَايَٰتِي وَمَآ أُنذِرُواْ هُزُوٗا
Và TA (Allah) chỉ gửi các vị Sứ Giả đến để báo tin mừng và cảnh cáo (nhân loại) mà thôi. Tuy nhiên, những kẻ vô đức tin thường dùng sự ngụy tạo đầy sai quấy làm luận cứ để tranh cãi hầu đánh đổ Chân Lý. Họ đã lấy các lời mặc khải của TA cũng như những gì được cảnh cáo làm trò bỡn cợt, trêu đùa.
अरबी तफ़सीरें:
وَمَنۡ أَظۡلَمُ مِمَّن ذُكِّرَ بِـَٔايَٰتِ رَبِّهِۦ فَأَعۡرَضَ عَنۡهَا وَنَسِيَ مَا قَدَّمَتۡ يَدَاهُۚ إِنَّا جَعَلۡنَا عَلَىٰ قُلُوبِهِمۡ أَكِنَّةً أَن يَفۡقَهُوهُ وَفِيٓ ءَاذَانِهِمۡ وَقۡرٗاۖ وَإِن تَدۡعُهُمۡ إِلَى ٱلۡهُدَىٰ فَلَن يَهۡتَدُوٓاْ إِذًا أَبَدٗا
Còn ai sai quấy hơn kẻ khi được nhắc cho các lời phán từ Thượng Đế của y thì y quay mặt lánh xa và quên mất những gì mà bàn tay của y đã gửi đi trước (từ tội lỗi của y)! Quả thật, TA (Allah) đã phủ kín trái tim của họ để họ không thể hiểu và tiếp thu Nó (Qur’an) và TA đã làm cho tai của họ trở nên điếc (không nghe thấy gì), cho nên nếu Ngươi (Muhammad) có kêu gọi họ đến với Chỉ Đạo thì họ cũng sẽ không bao giờ được hướng dẫn.
अरबी तफ़सीरें:
وَرَبُّكَ ٱلۡغَفُورُ ذُو ٱلرَّحۡمَةِۖ لَوۡ يُؤَاخِذُهُم بِمَا كَسَبُواْ لَعَجَّلَ لَهُمُ ٱلۡعَذَابَۚ بَل لَّهُم مَّوۡعِدٞ لَّن يَجِدُواْ مِن دُونِهِۦ مَوۡئِلٗا
Và Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) là Đấng Tha Thứ tràn đầy lòng thương xót. Nếu Ngài bắt tội họ với những gì mà họ đã phạm thì chắc chắn Ngài sẽ nhanh chóng giáng hình phạt xuống họ. Nhưng vì lời hứa (trừng phạt) dành cho họ (đã được ấn định ở Đời Sau), lúc đó chắc chắn họ sẽ không bao giờ tìm thấy nơi nào để thoát nạn.
अरबी तफ़सीरें:
وَتِلۡكَ ٱلۡقُرَىٰٓ أَهۡلَكۡنَٰهُمۡ لَمَّا ظَلَمُواْ وَجَعَلۡنَا لِمَهۡلِكِهِم مَّوۡعِدٗا
Các thị trấn đó (dân ‘Ad, Thamud,...), TA đã hủy diệt họ khi họ làm điều sai quấy và TA đã ấn định giờ hẹn cho việc hủy diệt họ.
अरबी तफ़सीरें:
وَإِذۡ قَالَ مُوسَىٰ لِفَتَىٰهُ لَآ أَبۡرَحُ حَتَّىٰٓ أَبۡلُغَ مَجۡمَعَ ٱلۡبَحۡرَيۡنِ أَوۡ أَمۡضِيَ حُقُبٗا
Và (hãy nhớ lại) khi Musa nói với cậu bé (học trò cùng đồng hành) của Y: “Ta vẫn phải tiếp tục cuộc hành trình cho đến khi tới được nơi tiếp giáp của hai vùng biển bằng không chẳng biết đến bao giờ Ta mới tới đó được”.
अरबी तफ़सीरें:
فَلَمَّا بَلَغَا مَجۡمَعَ بَيۡنِهِمَا نَسِيَا حُوتَهُمَا فَٱتَّخَذَ سَبِيلَهُۥ فِي ٱلۡبَحۡرِ سَرَبٗا
Nhưng khi hai thầy trò đến được nơi tiếp giáp của hai vùng biển thì cả hai đã quên mất con cá của họ, nó đã nhảy xuống biển lội đi mất như đi trong đường hầm.
अरबी तफ़सीरें:
فَلَمَّا جَاوَزَا قَالَ لِفَتَىٰهُ ءَاتِنَا غَدَآءَنَا لَقَدۡ لَقِينَا مِن سَفَرِنَا هَٰذَا نَصَبٗا
Cho nên, khi hai thầy trò họ đi quá nơi hẹn, (Musa) bảo cậu học trò: “Con hãy dọn bữa trưa của chúng ta ra đi, quả thật chúng ta đã thấm mệt bởi một chuyến đi dài!”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ أَرَءَيۡتَ إِذۡ أَوَيۡنَآ إِلَى ٱلصَّخۡرَةِ فَإِنِّي نَسِيتُ ٱلۡحُوتَ وَمَآ أَنسَىٰنِيهُ إِلَّا ٱلشَّيۡطَٰنُ أَنۡ أَذۡكُرَهُۥۚ وَٱتَّخَذَ سَبِيلَهُۥ فِي ٱلۡبَحۡرِ عَجَبٗا
(Cậu học trò) nói: “Thưa thầy, thầy có nhớ lúc chúng ta đến được mũi đá không, con đã quên mất chuyện con cá, Shaytan đã làm con quên nói với thầy về chuyện con cá, con cá đã tìm cách nhảy xuống biển một cách thật kỳ diệu”.
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ ذَٰلِكَ مَا كُنَّا نَبۡغِۚ فَٱرۡتَدَّا عَلَىٰٓ ءَاثَارِهِمَا قَصَصٗا
(Musa) bảo: “Đấy chính là địa điểm mà chúng ta cần tìm”. Vậy là hai thầy trò lần theo lối cũ mà quay trở lại nơi hẹn.
अरबी तफ़सीरें:
فَوَجَدَا عَبۡدٗا مِّنۡ عِبَادِنَآ ءَاتَيۡنَٰهُ رَحۡمَةٗ مِّنۡ عِندِنَا وَعَلَّمۡنَٰهُ مِن لَّدُنَّا عِلۡمٗا
Họ đã gặp được một người bề tôi (Al-Khudhir) của TA, người mà TA đã ban cho Y hồng ân và đã dạy Y kiến thức từ nơi TA.
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ لَهُۥ مُوسَىٰ هَلۡ أَتَّبِعُكَ عَلَىٰٓ أَن تُعَلِّمَنِ مِمَّا عُلِّمۡتَ رُشۡدٗا
Musa nói với Y (Al-Khudhir): “Tôi có thể theo Ông để Ông dạy Tôi điều đúng đắn mà Ông đã được (Allah) chỉ dạy hay không?
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ إِنَّكَ لَن تَسۡتَطِيعَ مَعِيَ صَبۡرٗا
(Al-Khudhir) nói: “Chắc chắn Ngươi sẽ không bao giờ có thể kiên nhẫn được cùng với Ta đâu.”
अरबी तफ़सीरें:
وَكَيۡفَ تَصۡبِرُ عَلَىٰ مَا لَمۡ تُحِطۡ بِهِۦ خُبۡرٗا
“Làm sao Ngươi có thể kiên nhẫn trên điều mà Ngươi không có kiến thức về nó (điều ẩn bên trong sự việc) được chứ?!”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ سَتَجِدُنِيٓ إِن شَآءَ ٱللَّهُ صَابِرٗا وَلَآ أَعۡصِي لَكَ أَمۡرٗا
(Musa) nói: “Insha-Allah, Ông sẽ thấy Tôi nhẫn nại và Tôi sẽ không cãi lại Ông bất cứ việc gì.”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ فَإِنِ ٱتَّبَعۡتَنِي فَلَا تَسۡـَٔلۡنِي عَن شَيۡءٍ حَتَّىٰٓ أُحۡدِثَ لَكَ مِنۡهُ ذِكۡرٗا
(Al-Khudhir) bảo: “Thôi được, nếu Ngươi đi theo Ta thì ngươi chớ hỏi Ta về bất cứ điều gì cho tới khi Ta tự nói ra điều đó cho Ngươi biết.”
अरबी तफ़सीरें:
فَٱنطَلَقَا حَتَّىٰٓ إِذَا رَكِبَا فِي ٱلسَّفِينَةِ خَرَقَهَاۖ قَالَ أَخَرَقۡتَهَا لِتُغۡرِقَ أَهۡلَهَا لَقَدۡ جِئۡتَ شَيۡـًٔا إِمۡرٗا
Thế là hai người họ ra đi cho đến khi cả hai lên một con thuyền thì (Al-Khudhir) đột nhiên đục cái lỗ làm thủng nó. (Musa) liền nói: “Sao Ông lại đục thủng con thuyền nhấn chìm mọi người trên nó chứ? Quả thật, Ông đã làm một việc quá ư là sai trái.”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ أَلَمۡ أَقُلۡ إِنَّكَ لَن تَسۡتَطِيعَ مَعِيَ صَبۡرٗا
(Al-Khudhir) nói: “Chẳng phải Ta đã bảo rằng Ngươi không bao giờ có thể kiên nhẫn được cùng với Ta sao?”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ لَا تُؤَاخِذۡنِي بِمَا نَسِيتُ وَلَا تُرۡهِقۡنِي مِنۡ أَمۡرِي عُسۡرٗا
(Musa) nói: “Xin Ông chớ bắt tội vì điều tôi đã lỡ trót quên và xin Ông chớ đừng nghiêm khắc cho việc (học hỏi) của Tôi.”
अरबी तफ़सीरें:
فَٱنطَلَقَا حَتَّىٰٓ إِذَا لَقِيَا غُلَٰمٗا فَقَتَلَهُۥ قَالَ أَقَتَلۡتَ نَفۡسٗا زَكِيَّةَۢ بِغَيۡرِ نَفۡسٖ لَّقَدۡ جِئۡتَ شَيۡـٔٗا نُّكۡرٗا
Rồi hai người họ lại tiếp tục lên đường, cho đến khi cả hai gặp được một cậu bé thì (Al-Khudhir) đã giết chết cậu bé đó. (Musa) nói: “Sao Ông lại giết một mạng người vô tội như vậy chứ? Quả thật Ông đã làm một điều quá ư là tội lỗi.”
अरबी तफ़सीरें:
۞ قَالَ أَلَمۡ أَقُل لَّكَ إِنَّكَ لَن تَسۡتَطِيعَ مَعِيَ صَبۡرٗا
(Al-Khudhir) nói: “Chẳng phải Ta đã bảo rằng Ngươi không bao giờ có thể kiên nhẫn được cùng với Ta sao?”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ إِن سَأَلۡتُكَ عَن شَيۡءِۭ بَعۡدَهَا فَلَا تُصَٰحِبۡنِيۖ قَدۡ بَلَغۡتَ مِن لَّدُنِّي عُذۡرٗا
(Musa) nói: “Sau lần này, nếu Tôi còn thắc mắc bất cứ điều gì thì Ông hãy không cho tôi đi cùng Ông nữa, bởi lúc đó Ông chắc chắn có đủ lý do để không chấp nhận (lời khẩn xin) của Tôi.”
अरबी तफ़सीरें:
فَٱنطَلَقَا حَتَّىٰٓ إِذَآ أَتَيَآ أَهۡلَ قَرۡيَةٍ ٱسۡتَطۡعَمَآ أَهۡلَهَا فَأَبَوۡاْ أَن يُضَيِّفُوهُمَا فَوَجَدَا فِيهَا جِدَارٗا يُرِيدُ أَن يَنقَضَّ فَأَقَامَهُۥۖ قَالَ لَوۡ شِئۡتَ لَتَّخَذۡتَ عَلَيۡهِ أَجۡرٗا
Vậy là hai người họ lại tiếp tục đi, mãi cho tới khi đến được một thị trấn, hai người hỏi xin thức ăn của thị dân nơi đó nhưng họ đã từ chối tiếp đãi hai người. Rồi hai người họ thấy trong thị trấn có một bức tường sắp ngã, (Al-Khudhair) đã liền dựng nó đứng thẳng trở lại. (Musa) lên tiếng: “Nếu muốn, Ông có thể đòi thị dân trả công về việc này mà!”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ هَٰذَا فِرَاقُ بَيۡنِي وَبَيۡنِكَۚ سَأُنَبِّئُكَ بِتَأۡوِيلِ مَا لَمۡ تَسۡتَطِع عَّلَيۡهِ صَبۡرًا
(Al-Khudhir) nói: “Đây là lúc Ta và Ngươi phải chia tay. Bây giờ Ta trình bày cho Ngươi biết ý nghĩa về những điều mà Ngươi đã không thể nhẫn nại.”
अरबी तफ़सीरें:
أَمَّا ٱلسَّفِينَةُ فَكَانَتۡ لِمَسَٰكِينَ يَعۡمَلُونَ فِي ٱلۡبَحۡرِ فَأَرَدتُّ أَنۡ أَعِيبَهَا وَكَانَ وَرَآءَهُم مَّلِكٞ يَأۡخُذُ كُلَّ سَفِينَةٍ غَصۡبٗا
“Đối với con thuyền, đó là tài sản của những người nghèo lao động trên biển. Sở dĩ Ta muốn làm cho nó hư đi là bởi vì phía sau những người nghèo đó có một ông vua thường hay dùng cường quyền để chiếm đoạt tất cả các con thuyền (lành lặn và tốt).
अरबी तफ़सीरें:
وَأَمَّا ٱلۡغُلَٰمُ فَكَانَ أَبَوَاهُ مُؤۡمِنَيۡنِ فَخَشِينَآ أَن يُرۡهِقَهُمَا طُغۡيَٰنٗا وَكُفۡرٗا
“Còn đối với đứa trẻ, bởi vì cha mẹ của nó là những người có đức tin, ta sợ rằng sự thái quá và vô đức tin của nó (đối với Allah) sẽ khiến cha mẹ của nó phạm tội.”
अरबी तफ़सीरें:
فَأَرَدۡنَآ أَن يُبۡدِلَهُمَا رَبُّهُمَا خَيۡرٗا مِّنۡهُ زَكَوٰةٗ وَأَقۡرَبَ رُحۡمٗا
“Vì thế, Ta mong rằng Thượng Đế của cha mẹ nó sẽ ban lại cho hai người họ một đứa con trai khác trong sạch và gần hơn với sự khoan dung (của Allah).”
अरबी तफ़सीरें:
وَأَمَّا ٱلۡجِدَارُ فَكَانَ لِغُلَٰمَيۡنِ يَتِيمَيۡنِ فِي ٱلۡمَدِينَةِ وَكَانَ تَحۡتَهُۥ كَنزٞ لَّهُمَا وَكَانَ أَبُوهُمَا صَٰلِحٗا فَأَرَادَ رَبُّكَ أَن يَبۡلُغَآ أَشُدَّهُمَا وَيَسۡتَخۡرِجَا كَنزَهُمَا رَحۡمَةٗ مِّن رَّبِّكَۚ وَمَا فَعَلۡتُهُۥ عَنۡ أَمۡرِيۚ ذَٰلِكَ تَأۡوِيلُ مَا لَمۡ تَسۡطِع عَّلَيۡهِ صَبۡرٗا
“Riêng đối với bức tường, bởi vì đó là tài sản của hai đứa trẻ mồ côi trong thị trấn và bên dưới bức tường là một kho tàng của chúng (do cha chúng để lại cho chúng) và cha của chúng là một người ngoan đạo nên Thượng Đế của Ngươi muốn rằng khi hai đứa trẻ ấy trưởng thành chúng sẽ lấy kho tàng của chúng ra, như là một Hồng Ân của Thượng Đế của Ngươi. Và thực sự Ta đã không tự ý hành động những việc làm đó. Đó là ý nghĩa về những điều mà Ngươi đã không thể nhẫn nại được.”
अरबी तफ़सीरें:
وَيَسۡـَٔلُونَكَ عَن ذِي ٱلۡقَرۡنَيۡنِۖ قُلۡ سَأَتۡلُواْ عَلَيۡكُم مِّنۡهُ ذِكۡرًا
Và họ hỏi Ngươi (Muhammad) về Zdul-Qarnain[1]. Ngươi hãy bảo họ: “Ta sẽ đọc cho các người nghe về một phần câu chuyện của Người.”
[1] Zdul-Qarnain có nghĩa là người có hai chiếc sừng. Ông được cho là một vị vua công bằng và Qur’an cho biết rằng ông chuyên đi kêu gọi thiên hạ tôn thờ Allah và thực thi theo luật lệ của Ngài. Có một số Tafsir cho rằng Zdul-Qarnain là một vị Nabi. Tuy nhiên, theo lời giảng giải đúng nhất, Zdul-Qarnain chỉ là một vị vua và một nhà kêu gọi đến với tôn giáo của Allah.
अरबी तफ़सीरें:
إِنَّا مَكَّنَّا لَهُۥ فِي ٱلۡأَرۡضِ وَءَاتَيۡنَٰهُ مِن كُلِّ شَيۡءٖ سَبَبٗا
Quả thật, TA (Allah) đã để Y (Zdul-Qarnain) định cư trên trái đất và TA đã ban cho Y đầy đủ phương tiện cần thiết về mọi mặt.
अरबी तफ़सीरें:
فَأَتۡبَعَ سَبَبًا
Thế là Y dùng các phương tiện được ban cho ra đi (hướng về phía tây để thi hành điều công lý).
अरबी तफ़सीरें:
حَتَّىٰٓ إِذَا بَلَغَ مَغۡرِبَ ٱلشَّمۡسِ وَجَدَهَا تَغۡرُبُ فِي عَيۡنٍ حَمِئَةٖ وَوَجَدَ عِندَهَا قَوۡمٗاۖ قُلۡنَا يَٰذَا ٱلۡقَرۡنَيۡنِ إِمَّآ أَن تُعَذِّبَ وَإِمَّآ أَن تَتَّخِذَ فِيهِمۡ حُسۡنٗا
(Y ra đi) cho đến khi tới được một nơi ở hướng mặt trời lặn. Y thấy mặt trời như đang lặn xuống một dòng suối đục ngầu và Y bắt gặp một đám dân (vô đức tin) sống nơi đó. TA (Allah) phán bảo Y: “Này hỡi Zdul-Qarnain! (Ngươi được phép lựa chọn): hoặc ngươi trừng phạt họ hoặc ngươi đối xử nhân đạo với họ.”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ أَمَّا مَن ظَلَمَ فَسَوۡفَ نُعَذِّبُهُۥ ثُمَّ يُرَدُّ إِلَىٰ رَبِّهِۦ فَيُعَذِّبُهُۥ عَذَابٗا نُّكۡرٗا
(Zdul-Qarnain) bảo: “Đối với ai làm điều sai quấy thì Ta sẽ trừng trị y rồi y sẽ được đưa trở về trình diện Thượng Đế của y để Ngài trừng phạt y với hình phạt vô cùng khủng khiếp.”
अरबी तफ़सीरें:
وَأَمَّا مَنۡ ءَامَنَ وَعَمِلَ صَٰلِحٗا فَلَهُۥ جَزَآءً ٱلۡحُسۡنَىٰۖ وَسَنَقُولُ لَهُۥ مِنۡ أَمۡرِنَا يُسۡرٗا
“Còn đối với ai có đức tin và làm việc thiện tốt thì y sẽ được một phần thưởng tốt đẹp và Ta sẽ nói chuyện với y về mệnh lệnh của Ta bằng lời lẽ nhẹ nhàng và tử tế.”
अरबी तफ़सीरें:
ثُمَّ أَتۡبَعَ سَبَبًا
Rồi Y (Zdul-Qarnain) lại đi hướng đến một nơi khác (về phía đông).
अरबी तफ़सीरें:
حَتَّىٰٓ إِذَا بَلَغَ مَطۡلِعَ ٱلشَّمۡسِ وَجَدَهَا تَطۡلُعُ عَلَىٰ قَوۡمٖ لَّمۡ نَجۡعَل لَّهُم مِّن دُونِهَا سِتۡرٗا
(Y ra đi) cho đến khi tới được một nơi ở hướng mặt trời mọc và Y thấy mặt trời mọc lên trên một đám dân mà TA (Allah) đã không ban cho họ bất kỳ một tấm phủ nào để che chắn (cái nóng) của nó (tức không nhà cửa, không cây cối).
अरबी तफ़सीरें:
كَذَٰلِكَۖ وَقَدۡ أَحَطۡنَا بِمَا لَدَيۡهِ خُبۡرٗا
Giống như thế, TA thực sự đã quán triệt mọi điều ở nơi Y.
अरबी तफ़सीरें:
ثُمَّ أَتۡبَعَ سَبَبًا
Rồi Y lại đi hướng đến một nơi khác (ở giữa phía đông và phía tây).
अरबी तफ़सीरें:
حَتَّىٰٓ إِذَا بَلَغَ بَيۡنَ ٱلسَّدَّيۡنِ وَجَدَ مِن دُونِهِمَا قَوۡمٗا لَّا يَكَادُونَ يَفۡقَهُونَ قَوۡلٗا
(Y ra đi) cho đến khi tới được một nơi giữa hai ngọn núi và thấy gần hai ngọn núi có một đám dân hầu như không hiểu được tiếng nói (của người ngoài).
अरबी तफ़सीरें:
قَالُواْ يَٰذَا ٱلۡقَرۡنَيۡنِ إِنَّ يَأۡجُوجَ وَمَأۡجُوجَ مُفۡسِدُونَ فِي ٱلۡأَرۡضِ فَهَلۡ نَجۡعَلُ لَكَ خَرۡجًا عَلَىٰٓ أَن تَجۡعَلَ بَيۡنَنَا وَبَيۡنَهُمۡ سَدّٗا
Họ nói: “Hỡi Zdul-Qarnain! Quả thật, Yajuj và Majuj là những kẻ tàn phá trên trái đất. Liệu chúng tôi sẽ dâng lễ vật cho ngài để ngài giúp chúng tôi dựng lên một bức tường thành ngăn cách giữa chúng tôi với bọn họ được không?”
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ مَا مَكَّنِّي فِيهِ رَبِّي خَيۡرٞ فَأَعِينُونِي بِقُوَّةٍ أَجۡعَلۡ بَيۡنَكُمۡ وَبَيۡنَهُمۡ رَدۡمًا
(Zdul-Qarnain) bảo: “Những gì mà Thượng Đế của Ta ban cho Ta còn tốt hơn. Do đó, các người chỉ cần giúp Ta sức lực thôi, Ta sẽ dựng một bức tường thành ngăn cách các người khỏi bọn họ.”
अरबी तफ़सीरें:
ءَاتُونِي زُبَرَ ٱلۡحَدِيدِۖ حَتَّىٰٓ إِذَا سَاوَىٰ بَيۡنَ ٱلصَّدَفَيۡنِ قَالَ ٱنفُخُواْۖ حَتَّىٰٓ إِذَا جَعَلَهُۥ نَارٗا قَالَ ءَاتُونِيٓ أُفۡرِغۡ عَلَيۡهِ قِطۡرٗا
“Các người hãy mang đến cho Ta những thỏi sắt.” (Thế là họ mang thỏi sắt đến) cho tới khi lắp bằng chỗ trũng của hai sườn núi, Y (Zdul-Qarnain) bảo: “Các người hãy thổi.” Cho đến khi Y làm cho những thỏi sắt thành lửa, Y bảo: “Các người hãy mang đến cho Ta loại đồng nấu chảy để Ta đổ lên nó.”
अरबी तफ़सीरें:
فَمَا ٱسۡطَٰعُوٓاْ أَن يَظۡهَرُوهُ وَمَا ٱسۡتَطَٰعُواْ لَهُۥ نَقۡبٗا
Vậy là chúng (Ya’juj và Ma’juj) không thể trèo qua bức tường thành và cũng không thể đào thủng nó.
अरबी तफ़सीरें:
قَالَ هَٰذَا رَحۡمَةٞ مِّن رَّبِّيۖ فَإِذَا جَآءَ وَعۡدُ رَبِّي جَعَلَهُۥ دَكَّآءَۖ وَكَانَ وَعۡدُ رَبِّي حَقّٗا
(Zdul-Qarnain) bảo: “Đây là hồng phúc từ Thượng Đế của Ta. Tuy nhiên, một khi Lời Hứa của Thượng Đế của Ta đã đến thì Ngài sẽ làm cho nó (bức tường thành) ngã đổ. Và Lời hứa của Thượng Đế của Ta là sự thật.”
अरबी तफ़सीरें:
۞ وَتَرَكۡنَا بَعۡضَهُمۡ يَوۡمَئِذٖ يَمُوجُ فِي بَعۡضٖۖ وَنُفِخَ فِي ٱلصُّورِ فَجَمَعۡنَٰهُمۡ جَمۡعٗا
Và vào Ngày hôm đó, TA (Allah) sẽ để cho họ nổi lên như làn sóng chồng lên nhau, và tiếng còi hụ sẽ được thổi lên và TA sẽ tập trung tất cả bọn họ.
अरबी तफ़सीरें:
وَعَرَضۡنَا جَهَنَّمَ يَوۡمَئِذٖ لِّلۡكَٰفِرِينَ عَرۡضًا
Và vào Ngày hôm đó, TA sẽ phơi bày Hỏa Ngục cho những kẻ vô đức tin nhìn thấy tận mắt.
अरबी तफ़सीरें:
ٱلَّذِينَ كَانَتۡ أَعۡيُنُهُمۡ فِي غِطَآءٍ عَن ذِكۡرِي وَكَانُواْ لَا يَسۡتَطِيعُونَ سَمۡعًا
Những kẻ mà cặp mắt của họ bị che khỏi Lời Nhắc Nhở của TA, và họ đã không thể nghe được (Nó).
अरबी तफ़सीरें:
أَفَحَسِبَ ٱلَّذِينَ كَفَرُوٓاْ أَن يَتَّخِذُواْ عِبَادِي مِن دُونِيٓ أَوۡلِيَآءَۚ إِنَّآ أَعۡتَدۡنَا جَهَنَّمَ لِلۡكَٰفِرِينَ نُزُلٗا
Phải chăng những kẻ vô đức tin nghĩ rằng họ được quyền nhận đám bầy tôi của TA làm những kẻ bảo hộ thay vì TA hay sao? Quả thật, TA đã chuẩn bị Hỏa Ngục làm chốn định cư cho những kẻ vô đức tin.
अरबी तफ़सीरें:
قُلۡ هَلۡ نُنَبِّئُكُم بِٱلۡأَخۡسَرِينَ أَعۡمَٰلًا
Ngươi (Muhammad) hãy nói: “(Hỡi nhân loại), có phải các người muốn chúng tôi cho các người biết ai là những kẻ thất bại nhất trong việc làm và hành động ư?”
अरबी तफ़सीरें:
ٱلَّذِينَ ضَلَّ سَعۡيُهُمۡ فِي ٱلۡحَيَوٰةِ ٱلدُّنۡيَا وَهُمۡ يَحۡسَبُونَ أَنَّهُمۡ يُحۡسِنُونَ صُنۡعًا
“(Đó là) những kẻ đã phí mất công sức nơi cuộc sống trần gian nhưng cứ tưởng rằng họ đang được điều tốt lành trong việc làm và hành động của họ.”
अरबी तफ़सीरें:
أُوْلَٰٓئِكَ ٱلَّذِينَ كَفَرُواْ بِـَٔايَٰتِ رَبِّهِمۡ وَلِقَآئِهِۦ فَحَبِطَتۡ أَعۡمَٰلُهُمۡ فَلَا نُقِيمُ لَهُمۡ يَوۡمَ ٱلۡقِيَٰمَةِ وَزۡنٗا
Những kẻ đó chính là những kẻ đã phủ nhận các dấu hiệu của Thượng Đế của họ cũng như đã phủ nhận việc gặp gỡ lại Ngài. Cho nên, việc làm của họ đã trở thành vô nghĩa. Vì thế vào Ngày Phục Sinh, TA (Allah) sẽ không trả cho họ bất cứ giá trị nào.
अरबी तफ़सीरें:
ذَٰلِكَ جَزَآؤُهُمۡ جَهَنَّمُ بِمَا كَفَرُواْ وَٱتَّخَذُوٓاْ ءَايَٰتِي وَرُسُلِي هُزُوًا
Phần thưởng Hỏa Ngục dành cho họ như thế là bởi vì họ đã vô đức tin và bởi vì họ đã chế nhạo các lời mặc khải cũng như các vị Sứ Giả của TA.
अरबी तफ़सीरें:
إِنَّ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ كَانَتۡ لَهُمۡ جَنَّٰتُ ٱلۡفِرۡدَوۡسِ نُزُلًا
Quả thật, những ai có đức tin và hành thiện thì sẽ được ân thưởng các Ngôi Vườn Firdaws (nơi Thiên Đàng) làm chốn cư ngụ.
अरबी तफ़सीरें:
خَٰلِدِينَ فِيهَا لَا يَبۡغُونَ عَنۡهَا حِوَلٗا
Họ sẽ sống trong đó đời đời và sẽ không mong chuyển đến nơi khác.
अरबी तफ़सीरें:
قُل لَّوۡ كَانَ ٱلۡبَحۡرُ مِدَادٗا لِّكَلِمَٰتِ رَبِّي لَنَفِدَ ٱلۡبَحۡرُ قَبۡلَ أَن تَنفَدَ كَلِمَٰتُ رَبِّي وَلَوۡ جِئۡنَا بِمِثۡلِهِۦ مَدَدٗا
Ngươi (Muhammad) hãy nói: “Nếu lấy nước biển làm mực (để viết) những Lời Phán của Thượng Đế của Ta thì chắc chắn nước biển sẽ cạn hết trước khi dứt Lời Phán của Thượng Đế của Ta và dẫu cho chúng ta có mang đến những đại dương khác tương tự đi chăng nữa.”
अरबी तफ़सीरें:
قُلۡ إِنَّمَآ أَنَا۠ بَشَرٞ مِّثۡلُكُمۡ يُوحَىٰٓ إِلَيَّ أَنَّمَآ إِلَٰهُكُمۡ إِلَٰهٞ وَٰحِدٞۖ فَمَن كَانَ يَرۡجُواْ لِقَآءَ رَبِّهِۦ فَلۡيَعۡمَلۡ عَمَلٗا صَٰلِحٗا وَلَا يُشۡرِكۡ بِعِبَادَةِ رَبِّهِۦٓ أَحَدَۢا
Ngươi (Muhammad) hãy nói: “Ta thật ra cũng chỉ là một người phàm giống như các người nhưng Ta được mặc khải cho biết rằng quả thật Thượng Đế của các người chỉ có một Đấng Duy nhất. Bởi thế, ai mong được gặp gỡ Thượng Đế của y thì hãy làm việc thiện tốt và ngoan đạo; và chớ đừng dựng một ai (vật gì) làm đối tác của Ngài trong việc thờ phượng Ngài.”
अरबी तफ़सीरें:
 
अर्थों का अनुवाद सूरा: सूरा अल्-कह्फ़
सूरों की सूची पृष्ठ संख्या
 
क़ुरआन के अर्थों का अनुवाद - वियतनामी अनुवाद - मरकज़ रुव्वाद अत-तरजमा - अनुवादों की सूची

पवित्र क़ुरआन के अर्थों का वियतनामी अनुवाद। अनुवाद मरकज़ रुव्वाद अत-तरजमा ने वेबसाइट इस्लाम हाउस islamhoue.com की सहायता से किया है।

बंद करें