Salin ng mga Kahulugan ng Marangal na Qur'an - الترجمة الفيتنامية - مركز رواد الترجمة * - Indise ng mga Salin

XML CSV Excel API
Please review the Terms and Policies

Salin ng mga Kahulugan Surah: Maryam   Ayah:

Chương Mar-yam

كٓهيعٓصٓ
Kaf. Ha. Ya. 'Ain. Sad.
Ang mga Tafsir na Arabe:
ذِكۡرُ رَحۡمَتِ رَبِّكَ عَبۡدَهُۥ زَكَرِيَّآ
Nhắc lại hồng ân Thượng Đế của Ngươi được ban cho người bề tôi của Ngài, Zakariya(1).
(1) Zakariya là một vị Nabi trong các vị Nabi của Allah, Người là cha của Nabi Yahya. Trong The Bible (Kinh Thánh), Zakariya được ghi là Zacharias (phiên âm tiếng Việt: Gia-ca-ri-a).
Ang mga Tafsir na Arabe:
إِذۡ نَادَىٰ رَبَّهُۥ نِدَآءً خَفِيّٗا
Khi Y âm thầm thành tâm khẩn nguyện Thượng Đế của Y.
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ رَبِّ إِنِّي وَهَنَ ٱلۡعَظۡمُ مِنِّي وَٱشۡتَعَلَ ٱلرَّأۡسُ شَيۡبٗا وَلَمۡ أَكُنۢ بِدُعَآئِكَ رَبِّ شَقِيّٗا
Y khấn: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Quả thật, bề tôi đã yếu xương cốt, mái đầu thì đã bạc nhiều, nhưng lạy Thượng Đế, bề tôi vẫn không hề nản lòng trong việc cầu xin Ngài.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَإِنِّي خِفۡتُ ٱلۡمَوَٰلِيَ مِن وَرَآءِي وَكَانَتِ ٱمۡرَأَتِي عَاقِرٗا فَهَبۡ لِي مِن لَّدُنكَ وَلِيّٗا
“Và bề tôi thật sự lo lắng cho dòng dõi của bề tôi sau khi bề tôi (chết đi) trong lúc vợ của bề tôi lại là một người phụ nữ hiếm muộn. Bởi thế, xin Ngài ban cho bề tôi một đứa con từ nơi Ngài để tiếp tục dòng dõi.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَرِثُنِي وَيَرِثُ مِنۡ ءَالِ يَعۡقُوبَۖ وَٱجۡعَلۡهُ رَبِّ رَضِيّٗا
“Nó sẽ kế thừa bề tôi và kế thừa dòng dõi của Ya’qub (Jacob), và lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài làm cho Nó thành người bề tôi được Ngài hài lòng.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَٰزَكَرِيَّآ إِنَّا نُبَشِّرُكَ بِغُلَٰمٍ ٱسۡمُهُۥ يَحۡيَىٰ لَمۡ نَجۡعَل لَّهُۥ مِن قَبۡلُ سَمِيّٗا
Này hỡi Zakariya! Quả thật, TA (Allah) báo tin mừng cho Ngươi về một đứa con trai; tên của Nó là Yahya, cái tên mà từ trước đến nay TA chưa hề đặt cho ai.
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ رَبِّ أَنَّىٰ يَكُونُ لِي غُلَٰمٞ وَكَانَتِ ٱمۡرَأَتِي عَاقِرٗا وَقَدۡ بَلَغۡتُ مِنَ ٱلۡكِبَرِ عِتِيّٗا
Y thưa: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Làm sao bề tôi có thể có con khi mà vợ của bề tôi là một người phụ nữ hiếm muộn, hơn nữa bề tôi đã tuổi già sức yếu”.
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ كَذَٰلِكَ قَالَ رَبُّكَ هُوَ عَلَيَّ هَيِّنٞ وَقَدۡ خَلَقۡتُكَ مِن قَبۡلُ وَلَمۡ تَكُ شَيۡـٔٗا
(Thiên Thần) nói: “Thượng Đế của Ngươi đã phán đúng như thế: Chuyện đó rất đơn giản đối với TA. Quả thật TA đã tạo ra Ngươi trước đây trong lúc Ngươi không là gì cả.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ رَبِّ ٱجۡعَل لِّيٓ ءَايَةٗۖ قَالَ ءَايَتُكَ أَلَّا تُكَلِّمَ ٱلنَّاسَ ثَلَٰثَ لَيَالٖ سَوِيّٗا
(Zakariya) thưa: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Xin Ngài làm cho bề tôi một dấu hiệu (về tin mừng đó).” (Allah) phán: “Dấu hiệu của Ngươi sẽ là: Ngươi sẽ không nói chuyện được với mọi người trong ba đêm liền (mặc dầu Ngươi hãy còn khỏe mạnh bình thường).”
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَخَرَجَ عَلَىٰ قَوۡمِهِۦ مِنَ ٱلۡمِحۡرَابِ فَأَوۡحَىٰٓ إِلَيۡهِمۡ أَن سَبِّحُواْ بُكۡرَةٗ وَعَشِيّٗا
Rồi (Zakariya) bước ra khỏi phòng cầu nguyện đến gặp người dân của Y và ra dấu bảo họ tán dương (Allah) sáng chiều.
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَٰيَحۡيَىٰ خُذِ ٱلۡكِتَٰبَ بِقُوَّةٖۖ وَءَاتَيۡنَٰهُ ٱلۡحُكۡمَ صَبِيّٗا
Này hỡi Yahya! Ngươi hãy nhận lấy Kinh Sách bằng sức mạnh, và TA đã ban cho Ngươi sự khôn ngoan mặc dầu Ngươi hãy còn nhỏ tuổi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَحَنَانٗا مِّن لَّدُنَّا وَزَكَوٰةٗۖ وَكَانَ تَقِيّٗا
TA đã thương xót Y bằng lòng nhân từ nơi TA và thanh lọc Y trong sạch; và Y là một người ngay chính, ngoan đạo.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَبَرَّۢا بِوَٰلِدَيۡهِ وَلَمۡ يَكُن جَبَّارًا عَصِيّٗا
Y hiếu thảo với cha mẹ và không ngạo mạn cũng không phản nghịch.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَسَلَٰمٌ عَلَيۡهِ يَوۡمَ وُلِدَ وَيَوۡمَ يَمُوتُ وَيَوۡمَ يُبۡعَثُ حَيّٗا
Và sự bình an được ban cho Y vào ngày Y sinh ra đời, vào ngày Y chết đi và vào ngày Y được phục sinh trở lại!
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَٱذۡكُرۡ فِي ٱلۡكِتَٰبِ مَرۡيَمَ إِذِ ٱنتَبَذَتۡ مِنۡ أَهۡلِهَا مَكَانٗا شَرۡقِيّٗا
Và Ngươi (Muhammad) hãy nhớ lại trong Kinh Sách về Maryam khi Nữ rời gia đình đi lánh mặt tại một nơi về phía Đông.
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَٱتَّخَذَتۡ مِن دُونِهِمۡ حِجَابٗا فَأَرۡسَلۡنَآ إِلَيۡهَا رُوحَنَا فَتَمَثَّلَ لَهَا بَشَرٗا سَوِيّٗا
Nữ che một bức màn để họ không nhìn thấy (trong lúc Nữ thờ phượng Thượng Đế của Nữ). Thế là TA cử Đại Thiên Thần Jibril của TA đến gặp Nữ. (Jibril) hiện ra trước mặt Nữ trên hình hài của một người đàn ông phàm tục toàn diện.
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَتۡ إِنِّيٓ أَعُوذُ بِٱلرَّحۡمَٰنِ مِنكَ إِن كُنتَ تَقِيّٗا
(Trước sự xuất hiện của người lạ), Nữ (lo sợ) nói: “Tôi cầu xin Đấng Độ Lượng che chở khỏi ông. (Xin ông chớ lại gần tôi) nếu ông thực sự là người ngoan đạo.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ إِنَّمَآ أَنَا۠ رَسُولُ رَبِّكِ لِأَهَبَ لَكِ غُلَٰمٗا زَكِيّٗا
(Jibril) liền bảo: “Ta thật ra là một vị Sứ Giả của Thượng Đế của Nữ, (Ta đến báo cho Nữ biết rằng Ngài) sẽ ban cho Nữ một đứa con trai thanh khiết.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَتۡ أَنَّىٰ يَكُونُ لِي غُلَٰمٞ وَلَمۡ يَمۡسَسۡنِي بَشَرٞ وَلَمۡ أَكُ بَغِيّٗا
(Maryam không khỏi ngạc nhiên) nói: “Làm sao tôi có thể có được một đứa con trai khi mà chưa từng có một người phàm nào chạm đến người tôi. Hơn nữa, tôi đâu phải là một người phụ nữ hư đốn.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ كَذَٰلِكِ قَالَ رَبُّكِ هُوَ عَلَيَّ هَيِّنٞۖ وَلِنَجۡعَلَهُۥٓ ءَايَةٗ لِّلنَّاسِ وَرَحۡمَةٗ مِّنَّاۚ وَكَانَ أَمۡرٗا مَّقۡضِيّٗا
(Jibril) bảo: “Thượng Đế của Nữ đã phán đúng như thế: Việc đó rất đơn giản đối với TA. Và chắc chắn TA sẽ làm cho đứa con trai đó thành một dấu hiệu lạ cho nhân loại và là một hồng ân từ nơi TA. Đó là điều đã được định đoạt.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
۞ فَحَمَلَتۡهُ فَٱنتَبَذَتۡ بِهِۦ مَكَانٗا قَصِيّٗا
Thế rồi Nữ đã thụ thai và tạm lánh mặt ở một nơi xa.
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَأَجَآءَهَا ٱلۡمَخَاضُ إِلَىٰ جِذۡعِ ٱلنَّخۡلَةِ قَالَتۡ يَٰلَيۡتَنِي مِتُّ قَبۡلَ هَٰذَا وَكُنتُ نَسۡيٗا مَّنسِيّٗا
Rồi những cơn đau đẻ đã đưa Nữ đến dưới một thân cây chà là. Nữ (rên rỉ:) “Phải chi mình chết phứt cho xong trước việc này và bị quên bẵng đi!”
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَنَادَىٰهَا مِن تَحۡتِهَآ أَلَّا تَحۡزَنِي قَدۡ جَعَلَ رَبُّكِ تَحۡتَكِ سَرِيّٗا
(Lúc đó, bỗng có tiếng) gọi Nữ từ bên dưới bảo: “Mẹ chớ buồn phiền. Chắc chắn Thượng Đế của mẹ sẽ tạo một mạch nước bên dưới mẹ.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَهُزِّيٓ إِلَيۡكِ بِجِذۡعِ ٱلنَّخۡلَةِ تُسَٰقِطۡ عَلَيۡكِ رُطَبٗا جَنِيّٗا
“Và mẹ hãy lắc thân cây chà là về phía mẹ, trái chín tươi sẽ rụng xuống ngay chỗ mẹ.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَكُلِي وَٱشۡرَبِي وَقَرِّي عَيۡنٗاۖ فَإِمَّا تَرَيِنَّ مِنَ ٱلۡبَشَرِ أَحَدٗا فَقُولِيٓ إِنِّي نَذَرۡتُ لِلرَّحۡمَٰنِ صَوۡمٗا فَلَنۡ أُكَلِّمَ ٱلۡيَوۡمَ إِنسِيّٗا
“Mẹ hãy ăn, hãy uống và hãy vui lên. Nhưng khi thấy một người phàm nào thì mẹ hãy nói: quả thật tôi đã nguyện nhịn chay với Đấng Ar-Rahman (Đấng Độ Lượng), cho nên ngày hôm nay tôi nhất định không nói chuyện với bất kỳ ai.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَأَتَتۡ بِهِۦ قَوۡمَهَا تَحۡمِلُهُۥۖ قَالُواْ يَٰمَرۡيَمُ لَقَدۡ جِئۡتِ شَيۡـٔٗا فَرِيّٗا
Rồi Nữ ẳm đứa con về nhà gặp lại người dân của mình (sau khi đã hạ sinh). Thấy thế, người dân bảo: “Này Maryam! Cô thực sự đã mang về một điều quá ư là tồi tệ.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَٰٓأُخۡتَ هَٰرُونَ مَا كَانَ أَبُوكِ ٱمۡرَأَ سَوۡءٖ وَمَا كَانَتۡ أُمُّكِ بَغِيّٗا
“Này em gái của Harun! Cha của cô không phải là một kẻ xấu và mẹ của cô cũng chẳng phải là một phụ nữ hư đốn.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَأَشَارَتۡ إِلَيۡهِۖ قَالُواْ كَيۡفَ نُكَلِّمُ مَن كَانَ فِي ٱلۡمَهۡدِ صَبِيّٗا
Rồi (Maryam) lấy tay chỉ vào đứa bé. (Người dân) liền bảo: “Làm sao mà bọn ta có thể nói chuyện được với một đứa bé còn nằm trong nôi chứ?”
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ إِنِّي عَبۡدُ ٱللَّهِ ءَاتَىٰنِيَ ٱلۡكِتَٰبَ وَجَعَلَنِي نَبِيّٗا
(Ngay lúc đó, đứa bé) lên tiếng: “Quả thật Ta là một người bề tôi của Allah. Ngài ban cho Ta Kinh Sách và chọn Ta làm một vị Nabi.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَجَعَلَنِي مُبَارَكًا أَيۡنَ مَا كُنتُ وَأَوۡصَٰنِي بِٱلصَّلَوٰةِ وَٱلزَّكَوٰةِ مَا دُمۡتُ حَيّٗا
“Ngài ban phúc cho Ta bất cứ nơi nào Ta có mặt và ra lệnh cho Ta phải dâng lễ nguyện Salah và đóng Zakah suốt thời gian Ta sống trên đời.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَبَرَّۢا بِوَٰلِدَتِي وَلَمۡ يَجۡعَلۡنِي جَبَّارٗا شَقِيّٗا
“(Ngài ra lệnh cho Ta) phải hiếu thảo với mẹ của Ta; và Ngài không chỉ định Ta thành kẻ ngạo mạn và vô phúc.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَٱلسَّلَٰمُ عَلَيَّ يَوۡمَ وُلِدتُّ وَيَوۡمَ أَمُوتُ وَيَوۡمَ أُبۡعَثُ حَيّٗا
“Và sự bình an được ban cho Ta vào ngày Ta sinh ra đời, vào ngày Ta chết đi và vào ngày Ta được phục sinh trở lại!”
Ang mga Tafsir na Arabe:
ذَٰلِكَ عِيسَى ٱبۡنُ مَرۡيَمَۖ قَوۡلَ ٱلۡحَقِّ ٱلَّذِي فِيهِ يَمۡتَرُونَ
Đó là Ysa con trai của Maryam, lời nói thật mà (những kẻ lầm lạc) hãy còn hoài nghi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
مَا كَانَ لِلَّهِ أَن يَتَّخِذَ مِن وَلَدٖۖ سُبۡحَٰنَهُۥٓۚ إِذَا قَضَىٰٓ أَمۡرٗا فَإِنَّمَا يَقُولُ لَهُۥ كُن فَيَكُونُ
(Thật không phù hợp với Quyền Năng Siêu Việt) của Allah khi cho rằng Ngài có một đứa con trai. Thật quang vinh và trong sạch thay Ngài! (Đối với Ngài), một khi Ngài định đoạt điều gì, Ngài chỉ cần phán với nó “Hãy thành!” thì nó sẽ lập tức thành (đúng như ý của Ngài).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَإِنَّ ٱللَّهَ رَبِّي وَرَبُّكُمۡ فَٱعۡبُدُوهُۚ هَٰذَا صِرَٰطٞ مُّسۡتَقِيمٞ
(Ysa bảo): “Quả thật, Allah là Thượng Đế của Ta và cũng là Thượng Đế của các người. Bởi vậy, các người hãy tôn thờ Ngài. Đây mới chính là con đường ngay thẳng (dẫn đến sự hài lòng của Ngài).”
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَٱخۡتَلَفَ ٱلۡأَحۡزَابُ مِنۢ بَيۡنِهِمۡۖ فَوَيۡلٞ لِّلَّذِينَ كَفَرُواْ مِن مَّشۡهَدِ يَوۡمٍ عَظِيمٍ
Tuy nhiên, những nhóm phái đã bất đồng với nhau (về sự việc của Ysa). Bởi thế, sẽ thật khốn khổ cho những kẻ vô đức tin khi chứng kiến (những gì xảy ra) trong Ngày Trọng Đại!
Ang mga Tafsir na Arabe:
أَسۡمِعۡ بِهِمۡ وَأَبۡصِرۡ يَوۡمَ يَأۡتُونَنَا لَٰكِنِ ٱلظَّٰلِمُونَ ٱلۡيَوۡمَ فِي ضَلَٰلٖ مُّبِينٖ
Vào Ngày mà họ sẽ đến trình diện TA, họ sẽ được cho nghe và thấy rõ (mọi thứ của Ngày Hôm Đó). Nhưng ngày hôm nay những kẻ làm điều sai quấy vẫn cứ (thản nhiên) công khai lầm lạc.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَأَنذِرۡهُمۡ يَوۡمَ ٱلۡحَسۡرَةِ إِذۡ قُضِيَ ٱلۡأَمۡرُ وَهُمۡ فِي غَفۡلَةٖ وَهُمۡ لَا يُؤۡمِنُونَ
Ngươi (hỡi Muhammad), hãy cảnh báo họ về Ngày Hối Tiếc khi sự việc đã được quyết định trong lúc họ vẫn còn thờ ơ và không có đức tin.
Ang mga Tafsir na Arabe:
إِنَّا نَحۡنُ نَرِثُ ٱلۡأَرۡضَ وَمَنۡ عَلَيۡهَا وَإِلَيۡنَا يُرۡجَعُونَ
Quả thật TA (Allah) sẽ thừa hưởng trái đất và những ai sống trên đó và họ sẽ được đưa trở về trình diện TA.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَٱذۡكُرۡ فِي ٱلۡكِتَٰبِ إِبۡرَٰهِيمَۚ إِنَّهُۥ كَانَ صِدِّيقٗا نَّبِيًّا
Và Ngươi (Muhammad) hãy nhớ lại trong Kinh Sách (Qur’an được ban xuống cho Ngươi) về Ibrahim. Y đích thực là một người tuyệt đối tin tưởng, một vị Nabi (của Allah).
Ang mga Tafsir na Arabe:
إِذۡ قَالَ لِأَبِيهِ يَٰٓأَبَتِ لِمَ تَعۡبُدُ مَا لَا يَسۡمَعُ وَلَا يُبۡصِرُ وَلَا يُغۡنِي عَنكَ شَيۡـٔٗا
Khi Y nói với cha của mình: “Thưa cha! Tại sao cha lại thờ những vật không thể nghe, không thể thấy và cũng chẳng mang lợi về cho cha?”
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَٰٓأَبَتِ إِنِّي قَدۡ جَآءَنِي مِنَ ٱلۡعِلۡمِ مَا لَمۡ يَأۡتِكَ فَٱتَّبِعۡنِيٓ أَهۡدِكَ صِرَٰطٗا سَوِيّٗا
“Thưa cha! Quả thật con đã lĩnh hội được kiến thức mà cha không có; thế nên, con xin cha hãy nghe con, con sẽ dẫn cha đến một con đường ngay thẳng.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَٰٓأَبَتِ لَا تَعۡبُدِ ٱلشَّيۡطَٰنَۖ إِنَّ ٱلشَّيۡطَٰنَ كَانَ لِلرَّحۡمَٰنِ عَصِيّٗا
“Thưa cha! Cha đừng thờ cúng Shaytan nữa, quả thật, Shaytan chính là một tên phản nghịch đã từng chống đối Đấng Độ Lượng.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَٰٓأَبَتِ إِنِّيٓ أَخَافُ أَن يَمَسَّكَ عَذَابٞ مِّنَ ٱلرَّحۡمَٰنِ فَتَكُونَ لِلشَّيۡطَٰنِ وَلِيّٗا
“Thưa cha! Con lo sợ Đấng Độ Lượng sẽ trừng phạt cha để rồi cha trở thành bạn của Shaytan (cùng hội cùng thuyền với nó trong sự trừng phạt của Ngài).”
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ أَرَاغِبٌ أَنتَ عَنۡ ءَالِهَتِي يَٰٓإِبۡرَٰهِيمُۖ لَئِن لَّمۡ تَنتَهِ لَأَرۡجُمَنَّكَۖ وَٱهۡجُرۡنِي مَلِيّٗا
(Cha của Ibrahim) bảo: “Này Ibrahim, hẳn mày ghét những thần linh của tao lắm thì phải! Nếu mày không dừng lại, tao sẽ ném đá giết chết mày; mày hãy mau cút đi đâu đó cho khuất mắt tao, hãy đi cho thật lâu (và đừng nói chuyện với tao nữa).”
Ang mga Tafsir na Arabe:
قَالَ سَلَٰمٌ عَلَيۡكَۖ سَأَسۡتَغۡفِرُ لَكَ رَبِّيٓۖ إِنَّهُۥ كَانَ بِي حَفِيّٗا
(Ibrahim) nói: “Chào bằng an tạm biệt cha. Con sẽ cầu nguyện Thượng Đế của con tha thứ cho cha. Quả thật, Ngài Hằng Rộng Lượng với con.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَأَعۡتَزِلُكُمۡ وَمَا تَدۡعُونَ مِن دُونِ ٱللَّهِ وَأَدۡعُواْ رَبِّي عَسَىٰٓ أَلَّآ أَكُونَ بِدُعَآءِ رَبِّي شَقِيّٗا
(Ibrahim) nói với người dân: “Tôi xin từ biệt các người và những kẻ mà các người cầu nguyện ngoài Allah; còn tôi sẽ chỉ cầu nguyện Thượng Đế của tôi; tôi hy vọng sẽ không đến nỗi vô phúc qua việc cầu nguyện Thượng Đế của tôi.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَلَمَّا ٱعۡتَزَلَهُمۡ وَمَا يَعۡبُدُونَ مِن دُونِ ٱللَّهِ وَهَبۡنَا لَهُۥٓ إِسۡحَٰقَ وَيَعۡقُوبَۖ وَكُلّٗا جَعَلۡنَا نَبِيّٗا
Rồi khi Ibrahim đã từ biệt họ và những vật mà họ thờ phượng ngoài Allah, TA đã ban cho Y (một đứa con trai tên) Ishaq (Isaac) và (một đứa cháu trai tên) Ya’qub (Jacob); và cả hai đều đã được TA chọn làm Nabi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَوَهَبۡنَا لَهُم مِّن رَّحۡمَتِنَا وَجَعَلۡنَا لَهُمۡ لِسَانَ صِدۡقٍ عَلِيّٗا
Và TA đã ban hồng ân cho họ (con cháu của Ibrahim) và làm vinh danh họ qua tiếng nói trung thực.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَٱذۡكُرۡ فِي ٱلۡكِتَٰبِ مُوسَىٰٓۚ إِنَّهُۥ كَانَ مُخۡلَصٗا وَكَانَ رَسُولٗا نَّبِيّٗا
Và Ngươi (Muhammad) hãy nhắc lại trong Kinh Sách (Qur’an được ban xuống cho Ngươi) về Musa. Quả thật, Y là một người thành tâm, là một Sứ Giả và là một Nabi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَنَٰدَيۡنَٰهُ مِن جَانِبِ ٱلطُّورِ ٱلۡأَيۡمَنِ وَقَرَّبۡنَٰهُ نَجِيّٗا
TA đã gọi Y từ phía bên phải của ngọn núi và đưa Y xích lại gần để (TA) nói nhỏ.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَوَهَبۡنَا لَهُۥ مِن رَّحۡمَتِنَآ أَخَاهُ هَٰرُونَ نَبِيّٗا
TA đã ban thêm hồng phúc của TA cho Y bằng việc chọn người em trai của Y, Harun, làm một vị Nabi (phò tá cho Y).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَٱذۡكُرۡ فِي ٱلۡكِتَٰبِ إِسۡمَٰعِيلَۚ إِنَّهُۥ كَانَ صَادِقَ ٱلۡوَعۡدِ وَكَانَ رَسُولٗا نَّبِيّٗا
Và Ngươi (Muhammad) hãy nhắc lại trong Kinh Sách (Qur’an được ban xuống cho Ngươi) về Isma'il. Quả thật, Y là một người trung thực, giữ lời hứa; và là một Sứ Giả, một vị Nabi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَكَانَ يَأۡمُرُ أَهۡلَهُۥ بِٱلصَّلَوٰةِ وَٱلزَّكَوٰةِ وَكَانَ عِندَ رَبِّهِۦ مَرۡضِيّٗا
Y đã thường bảo ban người nhà dâng lễ nguyện Salah và đóng Zakah, và Y là người được Thượng Đế của Y hài lòng.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَٱذۡكُرۡ فِي ٱلۡكِتَٰبِ إِدۡرِيسَۚ إِنَّهُۥ كَانَ صِدِّيقٗا نَّبِيّٗا
Và Ngươi (Muhammad) hãy nhớ lại trong Kinh Sách (Qur’an được ban xuống cho Ngươi) về Idris (Enoch). Quả thật, Y là một người tin tưởng tuyệt đối, là một vị Nabi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَرَفَعۡنَٰهُ مَكَانًا عَلِيًّا
TA đã đưa Y lên một nơi trên cao.
Ang mga Tafsir na Arabe:
أُوْلَٰٓئِكَ ٱلَّذِينَ أَنۡعَمَ ٱللَّهُ عَلَيۡهِم مِّنَ ٱلنَّبِيِّـۧنَ مِن ذُرِّيَّةِ ءَادَمَ وَمِمَّنۡ حَمَلۡنَا مَعَ نُوحٖ وَمِن ذُرِّيَّةِ إِبۡرَٰهِيمَ وَإِسۡرَٰٓءِيلَ وَمِمَّنۡ هَدَيۡنَا وَٱجۡتَبَيۡنَآۚ إِذَا تُتۡلَىٰ عَلَيۡهِمۡ ءَايَٰتُ ٱلرَّحۡمَٰنِ خَرُّواْۤ سُجَّدٗاۤ وَبُكِيّٗا۩
Những người đó đều là những người đã được Allah ban ân trong số các vị Nabi xuất thân từ con cháu của Adam, từ những người đã được TA chuyên chở trên chiếc tàu cùng với Nuh, từ con cháu của Ibrahim, của Israel, và từ những người đã được TA hướng dẫn và chọn lọc. Khi những lời mặc khải của Đấng Độ Lượng được đọc lên cho họ nghe thì họ phủ phục quỳ lạy và bật khóc.
Ang mga Tafsir na Arabe:
۞ فَخَلَفَ مِنۢ بَعۡدِهِمۡ خَلۡفٌ أَضَاعُواْ ٱلصَّلَوٰةَ وَٱتَّبَعُواْ ٱلشَّهَوَٰتِۖ فَسَوۡفَ يَلۡقَوۡنَ غَيًّا
Nhưng thời sau họ là một hậu thế bỏ bê lễ nguyện Salah và chạy theo dục vọng thấp hèn, nên họ sẽ phải đối diện với Ghaiya (tên của thung lũng trong Hỏa Ngục).
Ang mga Tafsir na Arabe:
إِلَّا مَن تَابَ وَءَامَنَ وَعَمِلَ صَٰلِحٗا فَأُوْلَٰٓئِكَ يَدۡخُلُونَ ٱلۡجَنَّةَ وَلَا يُظۡلَمُونَ شَيۡـٔٗا
Trừ những ai biết ăn năn sám hối, có đức tin, và làm việc thiện tốt thì sẽ vào Thiên Đàng và sẽ không bị đối xử bất công bất cứ điều gì.
Ang mga Tafsir na Arabe:
جَنَّٰتِ عَدۡنٍ ٱلَّتِي وَعَدَ ٱلرَّحۡمَٰنُ عِبَادَهُۥ بِٱلۡغَيۡبِۚ إِنَّهُۥ كَانَ وَعۡدُهُۥ مَأۡتِيّٗا
Các Ngôi Vườn Thiên Đàng Vĩnh Cửu mà Đấng Độ Lượng đã hứa với các bề tôi của Ngài tuy vô hình nhưng Lời Hứa của Ngài là điều chắc chắn sẽ được thể hiện.
Ang mga Tafsir na Arabe:
لَّا يَسۡمَعُونَ فِيهَا لَغۡوًا إِلَّا سَلَٰمٗاۖ وَلَهُمۡ رِزۡقُهُمۡ فِيهَا بُكۡرَةٗ وَعَشِيّٗا
Trong Thiên Đàng, họ sẽ không còn nghe thấy bất cứ lời lẽ khiếm nhã và thô tục nào mà toàn chỉ là những lời chúc tụng “Bằng an”. Và trong đó, họ sẽ được ban cho đầy đủ bổng lộc cả sáng lẫn chiều.
Ang mga Tafsir na Arabe:
تِلۡكَ ٱلۡجَنَّةُ ٱلَّتِي نُورِثُ مِنۡ عِبَادِنَا مَن كَانَ تَقِيّٗا
Đó là Thiên Đàng, nơi mà TA sẽ cho những người ngoan đạo trong đám bề tôi của TA thừa hưởng.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَمَا نَتَنَزَّلُ إِلَّا بِأَمۡرِ رَبِّكَۖ لَهُۥ مَا بَيۡنَ أَيۡدِينَا وَمَا خَلۡفَنَا وَمَا بَيۡنَ ذَٰلِكَۚ وَمَا كَانَ رَبُّكَ نَسِيّٗا
(Này Jibril, Ngươi hãy nói với Muhammad): “Chúng tôi (các Thiên Thần) chỉ xuống trần theo Mệnh Lệnh của Thượng Đế của Ngươi. Điều gì trước chúng tôi và điều gì sau chúng tôi và cả những gì ở giữa hai phần đó đều thuộc quyền định đoạt của Ngài. Và Thượng Đế của Ngươi không hề quên (bất cứ điều gì).”
Ang mga Tafsir na Arabe:
رَّبُّ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ وَمَا بَيۡنَهُمَا فَٱعۡبُدۡهُ وَٱصۡطَبِرۡ لِعِبَٰدَتِهِۦۚ هَلۡ تَعۡلَمُ لَهُۥ سَمِيّٗا
Ngài là Thượng Đế của các tầng trời, trái đất và những gì giữa chúng. Bởi thế, các ngươi hãy thờ phượng Ngài, và các ngươi hãy kiên nhẫn trong việc thờ phượng Ngài. Quả thật, không có một ai (vật gì) sánh vai với Ngài (trong thờ phượng).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَيَقُولُ ٱلۡإِنسَٰنُ أَءِذَا مَا مِتُّ لَسَوۡفَ أُخۡرَجُ حَيًّا
Và con người (vô đức tin nơi sự phục sinh) lên tiếng (bỡn cợt): “Chẳng lẽ khi chết rồi tôi sẽ được dựng sống lại thật ư?”
Ang mga Tafsir na Arabe:
أَوَلَا يَذۡكُرُ ٱلۡإِنسَٰنُ أَنَّا خَلَقۡنَٰهُ مِن قَبۡلُ وَلَمۡ يَكُ شَيۡـٔٗا
Chẳng lẽ con người không nhớ rằng chính TA đã tạo hóa ra y trước đây trong lúc y không là gì cả đó sao?
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَوَرَبِّكَ لَنَحۡشُرَنَّهُمۡ وَٱلشَّيَٰطِينَ ثُمَّ لَنُحۡضِرَنَّهُمۡ حَوۡلَ جَهَنَّمَ جِثِيّٗا
Thề bởi Thượng Đế của Ngươi (hỡi Muhammad), chắc chắn TA sẽ triệu tập họ lại và cả những tên Shaytan; rồi TA sẽ mang họ ra quỳ gối xung quanh Hỏa Ngục (một cách nhục nhã).
Ang mga Tafsir na Arabe:
ثُمَّ لَنَنزِعَنَّ مِن كُلِّ شِيعَةٍ أَيُّهُمۡ أَشَدُّ عَلَى ٱلرَّحۡمَٰنِ عِتِيّٗا
Rồi TA sẽ lôi cổ từng tên cầm đầu bướng bỉnh nhất từ trong mỗi nhóm phái đã chống đối Đấng Độ Lượng (ra trình diện TA).
Ang mga Tafsir na Arabe:
ثُمَّ لَنَحۡنُ أَعۡلَمُ بِٱلَّذِينَ هُمۡ أَوۡلَىٰ بِهَا صِلِيّٗا
Rồi TA là Đấng biết rõ nhất ai trong bọn họ là kẻ đáng bị nướng (trong Hỏa Ngục).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَإِن مِّنكُمۡ إِلَّا وَارِدُهَاۚ كَانَ عَلَىٰ رَبِّكَ حَتۡمٗا مَّقۡضِيّٗا
Và chắc chắn không ai trong các ngươi (hỡi nhân loại) tránh khỏi việc đi qua chiếc cầu Sirat (được bắt ngang qua Hỏa Ngục). Quyết định của Thượng Đế của Ngươi chắc chắn sẽ phải được thể hiện.
Ang mga Tafsir na Arabe:
ثُمَّ نُنَجِّي ٱلَّذِينَ ٱتَّقَواْ وَّنَذَرُ ٱلظَّٰلِمِينَ فِيهَا جِثِيّٗا
Rồi TA sẽ cứu rỗi những ai ngoan đạo và bỏ mặc những kẻ làm điều sai quấy quỳ gối trong đó (Hỏa Ngục).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَإِذَا تُتۡلَىٰ عَلَيۡهِمۡ ءَايَٰتُنَا بَيِّنَٰتٖ قَالَ ٱلَّذِينَ كَفَرُواْ لِلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ أَيُّ ٱلۡفَرِيقَيۡنِ خَيۡرٞ مَّقَامٗا وَأَحۡسَنُ نَدِيّٗا
Và khi những Lời Mặc Khải Minh Bạch của TA được đọc cho họ nghe, những kẻ vô đức tin bảo những người có đức tin: “Trong hai nhóm chúng ta, nhóm nào là nhóm có địa vị tốt và đáng kính trọng nhất (trong thành phố Makkah này)?”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَكَمۡ أَهۡلَكۡنَا قَبۡلَهُم مِّن قَرۡنٍ هُمۡ أَحۡسَنُ أَثَٰثٗا وَرِءۡيٗا
Trước họ đã có không biết bao thế hệ giàu có và hào nhoáng hơn đã bị TA hủy diệt.
Ang mga Tafsir na Arabe:
قُلۡ مَن كَانَ فِي ٱلضَّلَٰلَةِ فَلۡيَمۡدُدۡ لَهُ ٱلرَّحۡمَٰنُ مَدًّاۚ حَتَّىٰٓ إِذَا رَأَوۡاْ مَا يُوعَدُونَ إِمَّا ٱلۡعَذَابَ وَإِمَّا ٱلسَّاعَةَ فَسَيَعۡلَمُونَ مَنۡ هُوَ شَرّٞ مَّكَانٗا وَأَضۡعَفُ جُندٗا
Ngươi (Muhammad) hãy nói: “Những ai lầm lạc, Đấng Độ Lượng sẽ mở rộng (sự lầm lạc) thêm cho họ mãi tới khi họ nhìn thấy điều mà họ đã được hứa, hoặc sẽ là hình phạt hoặc sẽ là Giờ Khắc Tận thế; lúc đó họ sẽ biết ai là kẻ có địa vị tồi tệ nhất và có quân lực yếu nhất.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَيَزِيدُ ٱللَّهُ ٱلَّذِينَ ٱهۡتَدَوۡاْ هُدٗىۗ وَٱلۡبَٰقِيَٰتُ ٱلصَّٰلِحَٰتُ خَيۡرٌ عِندَ رَبِّكَ ثَوَابٗا وَخَيۡرٞ مَّرَدًّا
Allah sẽ ban thêm nguồn chỉ đạo cho những ai được hướng dẫn đúng đường. Và những việc làm thiện tốt sẽ mang lại phần thưởng tốt đẹp nhất cũng như sẽ mang lại kết quả phúc lành nhất ở nơi Thượng Đế của Ngươi (Muhammad).
Ang mga Tafsir na Arabe:
أَفَرَءَيۡتَ ٱلَّذِي كَفَرَ بِـَٔايَٰتِنَا وَقَالَ لَأُوتَيَنَّ مَالٗا وَوَلَدًا
(Chắc có lẽ) Ngươi (hỡi Muhammad,) đã thấy kẻ vô đức tin nơi những Lời Mặc Khải của TA khẳng định: “Chắc chắn tôi sẽ được ban cấp của cải và con cái (sau khi được phục sinh)”.
Ang mga Tafsir na Arabe:
أَطَّلَعَ ٱلۡغَيۡبَ أَمِ ٱتَّخَذَ عِندَ ٱلرَّحۡمَٰنِ عَهۡدٗا
Há y đã nhìn thấu điều vô hình hay phải chẳng y đã nhận được một Lời Cam Kết nào đó từ nơi Đấng Độ Lượng?
Ang mga Tafsir na Arabe:
كَلَّاۚ سَنَكۡتُبُ مَا يَقُولُ وَنَمُدُّ لَهُۥ مِنَ ٱلۡعَذَابِ مَدّٗا
Sự việc chắc chắn không phải như thế! TA sẽ cho ghi sổ điều mà y nói và sẽ tăng thêm hình phạt đối với y.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَنَرِثُهُۥ مَا يَقُولُ وَيَأۡتِينَا فَرۡدٗا
TA sẽ thừa kế y về những gì y nói và y sẽ phải đến trình diện TA đơn độc một mình.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَٱتَّخَذُواْ مِن دُونِ ٱللَّهِ ءَالِهَةٗ لِّيَكُونُواْ لَهُمۡ عِزّٗا
Họ (những kẻ đa thần) đã nhận lấy các thần linh khác ngoài Allah mục đích nhờ chúng phù hộ cho họ có được quyền uy và thế lực.
Ang mga Tafsir na Arabe:
كَلَّاۚ سَيَكۡفُرُونَ بِعِبَادَتِهِمۡ وَيَكُونُونَ عَلَيۡهِمۡ ضِدًّا
Sự việc chắc chắn không như họ đã tưởng! Những thần linh đó sẽ phủ nhận sự thờ phượng của họ và chúng sẽ trở thành những kẻ chống lại họ.
Ang mga Tafsir na Arabe:
أَلَمۡ تَرَ أَنَّآ أَرۡسَلۡنَا ٱلشَّيَٰطِينَ عَلَى ٱلۡكَٰفِرِينَ تَؤُزُّهُمۡ أَزّٗا
Chẳng lẽ Ngươi (Muhammad) không thấy việc TA đã gửi những tên Shaytan đến với những kẻ vô đức tin hầu xúi giục họ làm điều phản nghịch hay sao?
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَلَا تَعۡجَلۡ عَلَيۡهِمۡۖ إِنَّمَا نَعُدُّ لَهُمۡ عَدّٗا
Cho nên, Ngươi (Muhammad) chớ vội (cầu mong sự trừng phạt) giáng lên họ. Thật ra TA chỉ gia hạn cho họ một số ngày nhất định mà thôi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
يَوۡمَ نَحۡشُرُ ٱلۡمُتَّقِينَ إِلَى ٱلرَّحۡمَٰنِ وَفۡدٗا
Vào Ngày mà TA sẽ triệu tập những người ngoan đạo thành một phái đoàn đến trình diện Đấng Độ Lượng.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَنَسُوقُ ٱلۡمُجۡرِمِينَ إِلَىٰ جَهَنَّمَ وِرۡدٗا
TA sẽ lùa những kẻ tội lỗi đến Hỏa Ngục như một đàn thú.
Ang mga Tafsir na Arabe:
لَّا يَمۡلِكُونَ ٱلشَّفَٰعَةَ إِلَّا مَنِ ٱتَّخَذَ عِندَ ٱلرَّحۡمَٰنِ عَهۡدٗا
Họ không có quyền can thiệp cho nhau ngoại trừ người nào đã nhận từ Đấng Độ Lượng sự Giao Ước (đức tin nơi Ngài và nơi vị Thiên Sứ của Ngài).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَقَالُواْ ٱتَّخَذَ ٱلرَّحۡمَٰنُ وَلَدٗا
Và họ (Do Thái, Thiên Chúa và một số kẻ đa thần) nói: “Đấng Độ Lượng đã có một đứa con trai.”
Ang mga Tafsir na Arabe:
لَّقَدۡ جِئۡتُمۡ شَيۡـًٔا إِدّٗا
Quả thật các ngươi (hỡi những kẻ đã nói lời đó) đã mang đến một điều sàm bậy quá mức.
Ang mga Tafsir na Arabe:
تَكَادُ ٱلسَّمَٰوَٰتُ يَتَفَطَّرۡنَ مِنۡهُ وَتَنشَقُّ ٱلۡأَرۡضُ وَتَخِرُّ ٱلۡجِبَالُ هَدًّا
Các tầng trời gần như muốn vỡ tung, trái đất gần như muốn nứt ra làm hai và những quả núi gần như muốn sụp đổ từ lời nói đó.
Ang mga Tafsir na Arabe:
أَن دَعَوۡاْ لِلرَّحۡمَٰنِ وَلَدٗا
Họ đã bịa đặt cho Đấng Độ Lượng có con trai.
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَمَا يَنۢبَغِي لِلرَّحۡمَٰنِ أَن يَتَّخِذَ وَلَدًا
Và thật không hợp lẽ chút nào khi cho rằng Đấng Độ Lượng có một đứa con trai.
Ang mga Tafsir na Arabe:
إِن كُلُّ مَن فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ إِلَّآ ءَاتِي ٱلرَّحۡمَٰنِ عَبۡدٗا
Bởi quả thật tất cả những ai trong các tầng trời và trái đất đều đến trình diện Đấng Độ Lượng như một người bề tôi.
Ang mga Tafsir na Arabe:
لَّقَدۡ أَحۡصَىٰهُمۡ وَعَدَّهُمۡ عَدّٗا
Quả thật, Ngài đã kiểm kê và đánh số họ một cách chính xác, (không điều gì của họ che giấu được Ngài).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَكُلُّهُمۡ ءَاتِيهِ يَوۡمَ ٱلۡقِيَٰمَةِ فَرۡدًا
Và vào Ngày Phục Sinh, từng người đơn lẻ đến trình diện Ngài.
Ang mga Tafsir na Arabe:
إِنَّ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ سَيَجۡعَلُ لَهُمُ ٱلرَّحۡمَٰنُ وُدّٗا
Quả thật, những người có đức tin và làm điều thiện tốt sẽ được Đấng Độ Lượng yêu thương.
Ang mga Tafsir na Arabe:
فَإِنَّمَا يَسَّرۡنَٰهُ بِلِسَانِكَ لِتُبَشِّرَ بِهِ ٱلۡمُتَّقِينَ وَتُنذِرَ بِهِۦ قَوۡمٗا لُّدّٗا
Quả thật, TA làm cho Nó (Qur’an) thành dễ dàng với chiếc lưỡi của Ngươi (Muhammad) là để Ngươi dùng Nó báo tin mừng cho những người ngoan đạo và cảnh báo đám người hay tranh cãi (hầu phủ nhận sự thật).
Ang mga Tafsir na Arabe:
وَكَمۡ أَهۡلَكۡنَا قَبۡلَهُم مِّن قَرۡنٍ هَلۡ تُحِسُّ مِنۡهُم مِّنۡ أَحَدٍ أَوۡ تَسۡمَعُ لَهُمۡ رِكۡزَۢا
Đã có không biết bao thế hệ trước họ đã bị TA hủy diệt. Chắc chắn Ngươi không tìm thấy một người nào của bọn họ hoặc nghe một lời xầm xì nào của họ.
Ang mga Tafsir na Arabe:
 
Salin ng mga Kahulugan Surah: Maryam
Indise ng mga Surah Numero ng Pahina
 
Salin ng mga Kahulugan ng Marangal na Qur'an - الترجمة الفيتنامية - مركز رواد الترجمة - Indise ng mga Salin

ترجمة معاني القرآن الكريم إلى اللغة الفيتنامية ترجمها فريق مركز رواد الترجمة بالتعاون مع موقع دار الإسلام islamhouse.com.

Isara